Monthly Archives: March 2013

Lở đất Tây Tạng vùi lấp hơn 80 người

 

Lở đất Tây Tạng vùi lấp hơn 80 người

Cập nhật: 05:57 GMT – chủ nhật, 31 tháng 3, 2013
Xe xúc dọn dẹp đất đá ở hiện trườngĐây là một vụ lở đất nghiêm trọng

Hy vọng tắt dần cho 80 thợ mỏ bị chôn vùi trong một vụ lở đất hôm thứ Sáu ngày 29/3 tại Tây Tạng.

Truyền thông Trung Quốc cho biết thi thể đầu tiên đã được tìm thấy, nhưng phải đến 36 tiếng đồng hồ sau vụ lở đất, và rằng cơ hội tìm kiếm người sống sót hiện đang rất mong manh.

Trại tạm trú của các thợ mỏ, nằm cách thủ phủ Lhasa của Tây Tạng khoảng 70km về phía đông, đã bị hàng ngàn tấn đất đá phá hủy.

Cứu hộ khó khăn

Các đội cứu hộ đã gặp nhiều khó khăn trong tiết trời lạnh giá, say độ cao và nguy cơ tiếp tục lở đất.

Tân Hoa Xã cho biết đến 10h sáng giờ địa phương, tức 9h sáng giờ Việt Nam hôm thứ Bảy ngày 30/3, vẫn chưa tìm thấy người sống sót và sau đó cho biết thi thể đầu tiên đã được tìm thấy vào lúc 5h35 chiều giờ địa phương.

“Cơ hội sống sót của các thợ mỏ đang rất mong manh do quy mô của vụ lở đất,” hãng tin này dẫn lời một nhân viên cứu hộ cho biết.

Vụ lở đất xảy ra vào lúc 6h sáng giờ địa phương, tức 7h giờ sáng giờ Việt Nam, hôm thứ Sáu ngày 29/3 ở độ cao 4.600 mét, chôn vùi 83 thợ mỏ.

Khoảng 2.000 công an, lính cứu hỏa và bác sỹ đã được triển khai đến hiện trường. Họ đã dựng một trại cư trú tạm thời ở khoảng cách an toàn. Khoảng 200 chiếc xe xúc cũng được điều đến để dọn dẹp đất đá.

Tân Hoa Xã cho biết các vết nứt ở những ngọn núi kế bên là dấu hiệu cho thấy sẽ có thêm lở đất.

“Nhiệt độ xuống đến -3 độ C đã ảnh hưởng đến khứu giác của chó đánh hơi,” hãng tin này cho biết.

Hơn 300.000 mét khối đất đá đã được dọn dẹp khỏi hiện trường cho đến giữa ngày 30/3.

‘Ham muốn tài nguyên’

Nhân viên cứu hộ tìm kiếm người sống sótCông tác cứu nạn gặp rất nhiều khó khăn do điều kiện tự nhiên

Vị trí mỏ gặp nạn là ở huyện Maizhokunggar, nơi khai thác đồng cũng như bạc và vàng. Mỏ này do một chi nhánh của Tập đoàn Vàng Quốc gia Trung Quốc, nhà sản xuất vàng lớn nhất nước này, điều hành.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình được dẫn lời yêu cầu chính quyền ‘không từ nỗ lực nào’ trong công tác cứu hộ.

Đa phần các thợ gặp nạn là người Hán đến từ các tỉnh khác như Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên. Hai trong số đó là người Tạng.
Chính quyền Trung Quốc tin rằng cao nguyên Tây Tạng có rất nhiều tài nguyên, trong đó có hàng tấn đồng, chì, kẽm và sắt.

Có chỉ trích cho rằng chính quyền Bắc Kinh quan tâm đến Tây Tạng vì họ muốn khai thác trữ lượng tài nguyên khoáng sản dồi dào ở khu vực này.

Tuy nhiên, Bắc Kinh cho rằng họ đã đổ tiền của đầu tư vào để hiện đại hóa khu vực và nâng cao mức sống cho người dân ở đây.

Trong cùng ngày xảy ra vụ lở đất ở Tây Tạng, một vụ nổ khí gas khác cũng xảy ra ở một mỏ than thuộc tỉnh đông bắc Cát Lâm.

Khoảng 28 thợ mỏ đã thiệt mạng ở thành phố Bạch Sơn và 13 thợ mỏ khác đã được cứu sống sau vụ nổ này.

Advertisement
Categories: Tin-Tức Thế-Giới | Leave a comment

Dàn đồng ca trơ trẽn chối tội bắn tàu cá Việt Nam

Trung Quốc: Dàn đồng ca trơ trẽn chối tội bắn tàu cá Việt

 Nam

Thứ sáu 29/03/2013 07:30

Dù bằng chứng về vụ tàu chiến Trung Quốc nổ súng vào tàu của ngư dân Việt Nam trên vùng biển Hoàng Sa đã rất rõ ràng và đầy đủ, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cùng với giới truyền thông nước này vẫn ra sức chối tội bằng những tuyên bố tiền hậu bất nhất và ngang ngược.

Phần còn lại của cabin chiếc tàu QNg 96382 TS sau khi bị tàu Trung Quốc bắn cháy. 

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lương Thanh Nghị cho biết, hôm 20/3 vừa qua, tàu cá mang số hiệu QNg 96382 TS của ngư dân tỉnh Quảng Ngãi trong lúc đang hoạt động nghề cá bình thường tại ngư trường truyền thống thuộc khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc truy đuổi và nổ súng bắn cháy cabin. 

Khi chiếc tàu QNg 96382 TS trở về đất liền, vụ việc đã được báo cáo và sau khi điều tra, xác minh thông tin chính xác, đến ngày 25/3 Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi công hàm đến Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội để phản đối sự việc nói trên đồng thời yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt các hành vi phi pháp, trái với công ước và luật pháp quốc tế, vi phạm DOC và phải bồi thường cho các ngư dân của Việt Nam.

Phản ứng với những lời tố cáo này của Bộ Ngoại giao Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi đã có những tuyên bố rất ngang ngược, thể hiện sự bất chấp đạo lý một cách trắng trợn khi cho rằng việc bắn tàu cá Việt Nam là ‘chính đáng và cần thiết’.

“Danh không chính” thì tất nhiên “ngôn sẽ không thuận” nên ngay trong các tuyên bố của mình, đại diện Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tự để lộ sự xảo trá khi lúc đầu lên tiếng phủ nhận sự việc, cho rằng phía Trung Quốc không gây ra các hư hại cho tàu cá của Việt Nam nhưng ngay sau đó Hồng Lỗi lại thừa nhận hành động trên và còn tuyên bố đây là hành động nhằm ‘dạy cho các ngư dân phải tránh xa’ vùng biển thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam, nhưng ông này cho rằng thuộc chủ quyền Trung Quốc.

Một trong 4 chiếc tàu cá của ngư dân Việt Nam bị tàu chiến Trung Quốc tấn công hôm 20/3. (Ảnh: Tân Hoa Xã)

Khi “nhạc trưởng” đã lên tiếng, theo thông lệ “dàn đồng ca” của giới truyền thông được sự hậu thuẫn của Bắc Kinh đã đồng loạt “cất lời”.

Điển hình nhất là Đài truyền hình trung ương Trung Quốc (CCTV), nhật báo Quân Giải phóng (tờ báo của quân đội) và một loạt các cổng thông tin điện tử khác của nước này đã “nhại giọng” Bộ Ngoại giao Trung Quốc khi cho rằng Trung Quốc đã có hành động “hợp pháp và hợp lý” và tiếp tục phủ nhận việc nổ súng vào tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi dù chính người phát ngôn Hồng Lỗi đã thừa nhận trước đó.

“Việt Nam đã lên kế hoạch thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế bằng việc ‘đóng vai nạn nhân’”, Wu Shicun – giám đốc Viện nghiên cứu quốc gia về Biển Đông của Trung Quốc phát biểu trên tờ China Daily đồng thời tiếp tục luận điệu vu cáo ngư dân Việt Nam “xâm phạm trái phép” vào quần đảo Tây Sa (cách gọi của Trung Quốc về quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam).

Sự tiền hậu bất nhất này còn tiếp tục thể hiện ở việc lúc đầu phía Trung Quốc phủ nhận việc tàu chiến của họ đã có hành động bắt nạt các ngư dân của Việt Nam nhưng sau đó chính Bộ quốc phòng Trung Quốc buộc phải thừa nhận đã có nổ súng trong vụ đụng độ này. Sự thừa nhận này đã lập tức gây ra một làn sóng quan ngại trên khắp thế giới bởi việc một tàu chiến có vũ trang đầy đủ chủ động tấn công vào những ngư dân trong tay không một tấc sắt là hoàn toàn trái với đạo lý và luật pháp quốc tế.

Để chữa cháy cho lời thừa nhận “hớ” này, một quan chức hải quân Trung Quốc đã phát biểu với tờ Thời báo Hoàn cầu rằng “thực tế là tàu chiến của họ chỉ bắn pháo sáng lên không trung và 2 quả pháo ấy đã cháy hết”. Chưa hết, Thời báo Hoàn cầu và một số tờ báo khác của Trung Quốc đã vu cáo Việt Nam để bịt mắt dư luận trong nước của họ rằng “Việt Nam đã thêu dệt” ra câu chuyện này để bôi nhọ Trung Quốc.

Trên trang web của Bộ Quốc phòng, Trung Quốc còn tuyên bố rằng: “…Xuất phát từ việc bảo vệ đại cục trong mối quan hệ giữa quân đội hai nước Trung – Việt, tàu hải quân Trung Quốc từ trước đến nay chưa từng bắt giữ tàu cá Việt Nam”.

Vậy những lần tàu cá của ngư dân Việt Nam bị bắt giữ hàng tháng trời ở đảo Trụ Cẩu, bị tịch thu ngư cụ và hải sản đánh bắt được, bị cướp lương thực và nước ngọt (với đầy đủ video clip đang còn tồn tại trên mạng Internet) là do ai? Không lẽ là đám cướp biển giả dạng quân đội Trung Quốc? Và Hồng Lỗi cũng như Bộ Quốc phòng Trung Quốc sẽ trả lời thế nào với câu hỏi: Có bao giờ ngư dân của Trung Quốc tự đốt tàu của mình khi đang lênh đênh trên biển với hàng chục sinh mạng trên đó hay không?

Chỉ trong một thời gian ngắn, từ ban đầu là phủ nhận đến công nhận việc có nổ súng, sau đó là biện hộ rằng “chỉ bắn pháo sáng” rồi ngang nhiên tuyên bố đó là hành động “chính đáng và cần thiết”… chính Trung Quốc và giới truyền thông nước này đã tự thể hiện hành động nhằm mục đích “chối tội” và bào chữa cho hành động phi pháp, vô nhân tính của họ.

Nếu còn nhớ vụ tàu chiến Trung Quốc đã “khóa radar vào mục tiêu và sẵn sàng nổ súng” vào một tàu khu trục của Nhật Bản trong vùng biển Hoa Đông gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư hồi cuối tháng 1 vừa qua, người ta sẽ thấy luận điệu chối tội và thói quen phát ngôn “tiền hậu bất nhất” của Trung Quốc đã không chỉ xảy ra một lần.

Khi đó, sau lời tố cáo của Nhật Bản, lúc đầu Trung Quốc cũng lên tiếng “chối bay chối biến” hành động được cho là có thái độ rất khiêu khích và hiếu chiến này va khẳng định “đó là những lời tố cáo vô căn cứ với ý đồ bôi nhọ hình ảnh của quân đội Trung Quốc và khiến công luận quốc tế hiểu lầm”. Đến khi Nhật Bản trưng bày đầy đủ các bằng chứng, một đại diện của Bộ Quốc phòng Trung Quốc cũng đã phải thừa nhận và thanh minh rằng “hành động này không được lên kế hoạch trước và là một quyết định khẩn cấp do thuyền trưởng của tàu đưa ra”.

Tàu đổ bộ của Trung Quốc tập trận ở Biển Đông.

Nhưng dù có cố tình “lượn lẹo” hay ngang ngược thì những hành động của Trung Quốc vẫn không thể che giấu được động cơ thâm độc của họ trước con mắt của cộng đồng quốc tế. Từ Washington, ngày 26/3, ông Patrick Ventrell, phó phát ngôn tạm quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ nói rằng nước này “quan ngại” khi nghe tin về vụ việc và Mỹ đang tìm hiểu các thông tin thêm.

“Chúng tôi cực lực phản đối việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực hay cưỡng ép của bất cứ bên nào để thúc đẩy tuyên bố chủ quyền của họ trên Biển Đông”, ông Ventrell nói. Ông bình luận rằng, vụ việc này cho thấy rất cần thiết phải có một bộ quy tắc ứng xử để xử lý các tranh chấp “một cách minh bạch và có nguyên tắc”.

Bình luận về những hành động bắn cháy tàu cá của ngư dân Việt Nam, tổ chức tập trận đánh chiếm đảo hay rầm rộ kéo tàu chiến đến bãi đá James Shoal chỉ cách thành phố biển Bintulu của Malaysia có 80km, cách Brunei 200km, nhưng cách đất liền Trung Quốc tới 1.800km… rồi tuyên bố đó là “Cực Nam của lãnh hải Trung Quốc” “Chúng ta đang mất dần uy tín của mình với các đồng minh và bạn bè khi không tham gia vào vấn đề này. Trung Quốc diễn giải việc Mỹ không hành động có nghĩa là bật đèn xanh để nước này lấn tới”, ông Auslin nói trên tờ USA Today (Mỹ).

Lê Trí

Categories: Biển Đông | Leave a comment

Bá quyền đi liền vô nhân (28/03/2013)

Thời luận
Bá quyền đi liền vô nhân (28/03/2013)
Đến Cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy (Hà Giang), ta sẽ thấy một cây gạo cao hơn 30 mét, thân cây bầm dập những vết đạn bị quân Trung Quốc bắn, khi nhà cầm quyền Bắc Kinh xua quân tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979. Cây gạo thương tích vẫn còn đó như một chứng tích khắc ghi những tháng ngày quân và dân ta ngoan cường chiến đấu bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Thời gian qua đi, vết thương trên thân cây đã thành sẹo, những tưởng quá khứ đã khép lại nhưng không, cho đến hôm nay Biển Đông vẫn dậy sóng trước những hành động bá quyền từ phía Trung Quốc. Ngư dân Việt Nam đánh bắt hải sản trong ngư trường truyền thống tại vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vẫn bị phía Trung Quốc bắt giữ, đuổi bắn. Đó là hành động không thể chấp nhận.
Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa
được người dân đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi)
thực hiện nhiều trăm năm qua
Suốt mấy tháng qua, ngư dân Việt Nam đã gặp rất nhiều trở ngại khi đánh bắt hải sản trong vùng biển của Tổ quốc mình, nhất là vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa. Nhiều tàu cá Việt Nam đã bị tàu hải giám, ngư chính có vũ trang lẫn trực thăng phía Trung Quốc rượt đuổi. Hành động ấy không chỉ xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, mà còn cho thấy phía Trung Quốc đang chuyển sang hành động vũ lực vô nhân đạo đối với người dân lao động Việt Nam không một tấc sắt trong tay. Vụ việc mới đây nhất đã khẳng định điều đó.
Ngày 24-3, tàu cá của ông Bùi Văn Phải- ngư dân xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi trở về Đất Mẹ trong tình trạng bị bắn cháy, hư hỏng nặng nề. Trong lúc đánh bắt thủy sản ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa, ngày 20-3, tàu cá của ông  Phải đã bị tàu của Trung Quốc rượt đuổi và nổ súng thẳng vào cabin. Sự vây hãm, hăm dọa và tấn công bằng vũ lực kéo dài tới 30 phút. Một chiếc tàu cá với những người dân hiền lành không có vũ khí tự vệ đang đánh bắt hợp pháp trong vùng biển nước mình lại bị tấn công bằng súng. Đây là một bước đi nguy hiểm hung hãn của phía Trung Quốc nhằm đẩy bằng được người Việt Nam ra khỏi vùng biển của mình, để độc chiếm Biển Đông. Trước đó là xua đuổi, là bắt giữ, bây giờ là bắn thẳng vào người dân lao động. Sự leo thang này cho thấy tính chất vô nhân ngày càng lộ rõ. Từ đó một câu hỏi đặt ra: Nấc thang cuối cùng của hành động leo thang ấy sẽ là gì?
Trong khi lãnh đạo Trung Quốc vẫn tuyên bố muốn giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp thương lượng; muốn có hòa bình trên Biển Đông- vậy họ giải thích ra sao về hành động bắn vào người dân nước khác như vừa rồi? Lời nói và việc làm không đi đôi; sự gây hấn ngày càng rõ rệt, mức độ leo thang tăng dần… phải chăng tư tưởng bá quyền của họ chưa bao giờ nguôi ngoai. Tư tưởng sô-vanh chỉ biết đến quyền lợi quốc gia mình từ đó sẵn sàng chà đạp lẽ phải, công lý, tước đoạt quyền lợi chính đáng của các dân tộc, quốc gia khác. Phục vụ cho mục đích ấy, họ đã bắn vào dân thường- một hành động triệt đường sống của con người. Đã thế, phía Trung Quốc lại còn lớn tiếng tuyên bố rằng bắn là chính đáng; đồng thời lên giọng “khuyên” Việt Nam cần “giáo dục ngư dân của mình” không đi vào vùng biển mà họ tự nhận là lãnh hải của họ. Làm sao vùng biển ấy lại có thể là của phía Trung Quốc? Lịch sử đã ghi nhận, Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Người Việt Nam nhiều trăm năm trước đã xác định chủ quyền của mình tại đây, điều đó được thế giới thừa nhận với những tấm bản đồ, những ghi chép hải trình kể cả của các hải thuyền châu Âu.
Ngày nay, tới huyện đảo Lý Sơn, người ta vẫn chứng kiến Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Vào khoảng  nửa đầu thế kỷ 17 (chính xác là năm 1836), Chúa Nguyễn đã tổ chức Hải đội Hoàng Sa lấy người ở đây dong thuyền ra quần đảo Hoàng Sa, vừa là để khai thác đánh bắt hải sản, vừa là để khẳng định chủ quyền. “Đại Nam thực lục” ghi rằng, năm 1754, Mùa Thu, tháng 7, ngư dân Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh (Trung Quốc). Nhà Thanh hậu cấp rồi cho đưa về. Chúa Nguyễn viết thư cảm ơn. Ngay từ ngày đó, phía Trung Quốc đã công nhận Hoàng Sa là của Việt Nam, nhà cầm quyền Trung Quốc thời ấy còn giúp người dân Việt Nam gặp nạn trên biển. Thế nhưng sau này khi “vừa là đồng chí vừa là anh em” họ lại hành động trái ngược. Điều đó càng làm người ta nhớ lại việc vì sao các chúa Nguyễn thiết lập Hải đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở xã An Vĩnh (Lý Sơn), luân phiên nhau đi ra đảo. Tháng Giêng mỗi năm, dân binh Lý Sơn lại nhận mỗi người 6 tháng lương, chèo 5 chiếc thuyền câu nhỏ 3 ngày 3 đêm ròng rã ra đảo Hoàng Sa. Tháng 8 họ mới trở về. Việc duy trì Hải đội Hoàng Sa diễn ra liên tục, bởi quần đảo này là của Việt Nam. Năm tháng trôi qua, Âm Linh tự trên đảo Lý Sơn thờ  vong hồn dân binh giữ đảo vẫn còn đó, quanh năm hương khói. Thân xác hòa vào lòng biển khơi nhưng vong linh họ thì vẫn lồng lộng giữa muôn trùng sóng gió. Đình làng Lý Vĩnh vẫn tế sống những người con thân yêu ra Hoàng Sa, vì biết rằng nhiều người một đi không trở lại.
… Gìn giữ từng tấc đất biên cương, từng hòn đảo, từng hải lý là tâm niệm của mỗi con dân đất Việt. Tháng 3-1988, các tàu HQ-505, HQ-604, HQ-605 của Lữ đoàn 125 phối hợp với Lữ đoàn 146 và Trung đoàn công binh 83 Hải quân được lệnh hành quân khẩn cấp về nhóm đảo chìm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao thuộc quần đảo Trường Sa. Chiều tối ngày 13-3 năm ấy, tàu HQ-604 đến vùng biển Gạc Ma, tàu HQ-505 đến Cô Lin và tàu HQ-605 đến Len Đao. Sáng hôm sau, ngày 14-3, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên đảo Gạc Ma, giật cờ Việt Nam. Các chiến sĩ trên đảo đã cùng nắm tay nhau tạo thành một vòng tròn bảo vệ lá cờ Tổ quốc. Họ đã tạo thành một vòng tròn bất tử giữa đại dương nơi diệu vợi con nước. 64 chiến sĩ hy sinh lẫm liệt, họ đã hóa thân thành cột mốc biên cương chủ quyền quốc gia trong lòng biển.
Đường lưỡi bò thậm vô lý của phía Trung Quốc xuất phát từ tư tưởng bá quyền đi liền với sự vô nhân: nã súng vào người dân. Hành động ấy trời cùng người đều giận. Người ta đã vội quên rằng, trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc thì người Việt Nam vẫn không tiếc máu xương để giành độc lập, để làm chủ nhân đất nước. Bạo cường không thể bẻ gẫy tình yêu đất nước. Người Việt Nam có chính nghĩa, người Việt Nam yêu đất nước mình, xả thân vì đất nước mình- ngàn xưa đã vậy và hôm nay vẫn thế. Bất chấp sự đe dọa, ngư dân Việt Nam vẫn ra khơi đánh bắt hải sản trong ngư trường truyền thống của mình. Cả nước sát cánh cùng ngư dân bám biển. Sức mạnh của ta là chính nghĩa, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân mà thay cường bạo” chứ không phải là súng đạn và sự vô nhân.
NAM VIỆT
Categories: Biển Đông | Leave a comment

Trung Nam Hải đe dọa ở Biển đông

 

Friday, March 29, 2013

Trung Nam Hải đe dọa ở Biển đông

QLB 
 – Hôm nay, 29/3, tờ báo Hoàn Cầu – Trung Quốc đã có bài viết vô cùng ngang ngược đe dọa các nước láng giềng  trong vấn đề Biển Đông và tuyên bố sẵn sàng sử dụng biện pháp ‘cứng rắn’.

Hoàn Cầu nói rằng việc Trung Quốc bắn vào tàu đánh cá Việt Nam tại “vùng biển” nhằm thể hiện sự kiên quyết, không nhân nhượng của họ trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông!
Trung Nam Hải thể hiện rõ thái độ rất khó chịu khi Bộ ngoại giao Mỹ bày tỏ sự quan tâm trước sự kiện này. Hoàn Cầu cho rằng: “Nhiều điều ẩn chứa trong lời của người phát ngôn Bộ ngoại giao Mỹ, có thể Mỹ sẽ tham gia vào vấn đề Nam Hải (t ứcBiển Đông) bất cứ lúc nào”.
Trung Quốc cho rằng Mỹ đã thay Bộ trưởng ngoại giao, nhưng thái độ chèn ép của Mỹ đối với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông sẽ không thể có sự thay đổi theo. Hoàn Cầu nhấn mạnh bề  ngoài Trung Quốc xảy ra va chạm với một số nước Đông Nam Á, nhưng thực tế lại là sự đối đầu với Mỹ ở Biển Đông. Tính phức tạp và căng thẳng này sẽ không giảm đi.
Bắc Kinh nhấn mạnh rằng sau khi cựu ngoại trưởng Mỹ Hillarry dùng ngoại giao sức mạnh mềm để “gây rối” 4 năm ở Biển Đông, và sau nhiều lần va chạm với Phillppines, Việt Nam là các mối đe dọa của Trung Quốc ở Biển Đông đã lộ rõ. Các bên đã biết rõ về lực lượng và sự quyết tâm của nhau hơn.
Bắc Kinh thản nhiên nói rằng việc Trung Quốc ra đòn rắn tại Biển Đông đã làm thay đổi thế bị động của nước này và giúp Trung Quốc tôi luyện để nắm bắt và đánh giá mức độ của các vụ va chạm!
Không những thế, Trung Quốc trắng trợn tuyên bố của đúng như một kẻ côn đồ biết rõ mình đang ‘bắt nạt’ kẻ yếu thế: … Nếu vấn đề Biển Đông biến thành sự đối đầu về thực lực thì “Các nước Đông Nam Á sẽ không thể chịu nổi, và cũng không có hi vọng chiến thắng”.
 “…. Trung Quốc ngày càng trở nên quyết đoán và kiên quyết, Trung Quốc đã trở nên cứng rắn hơn. Và cục diện ở Nam Hải xét về tổng thể đã thích ứng với sự cứng rắn của Trung Quốc”.
Hoàn Cầu nhấn mạnh khả năng kiểm soát các vấn đề ở Biển Đông của Trung Quốc đang được tăng cường, Trung Quốc ngày càng có đủ điều kiện để chống lại sự can thiệp của Mỹ vào các vấn đề trên Biển Đông. Và tờ báo này cũng lớn tiếng đe nẹt: “Dù đã bị cảnh cáo nhưng các nước liên quan vẫn sẽ có những hành động khiêu khích mới, nếu bọn họ còn dám làm càn, độ rủi ro dư luận mà Trung Quốc đáp trả sự khiêu khích đó sẽ càng giảm đi”.
 Trung Quốc ám chỉ rằng các nước láng giềng rằng: Mỹ cùng lắmchỉ phát biểu vài ba câu rồi cho qua! Còn đòn phản công của Trung Quốc đã và đang được tiến hành một cách có kế hoạch và “các nước liên quan đối đầu gay gắt với Trung Quốc, so với bài học mà Trung Quốc ‘dạy’ cho họ sẽ lớn hơn nhiều”.
Thông điệp của Hoàn Cầu đưa ra có thể là sự chuẩn bị cho việc leo thang xâm lược cắt nát Việt Nam tại Biển Đông là một thực trạng có thật và các nhà lãnh đạo Việt Nam cần làm gì để đối i phó với thách thức khủng khiếp này???
Trần Ái Quốc
Categories: Uncategorized | Leave a comment

Nhục nhã thay cho Dân tộc Trung Hoa với những anh ‘Tàu ô’ lãnh đạo đất nước!

 

QLB – Hôm qua ngày 26/3, Báo chí Trung Quốc và hãng tin quốc tế  dẫn lời Người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước này, ông Hồng Lỗi, trắng trợn tuyên bố rằng: Việc bắn tàu cá Việt Nam là ‘chính đáng và cần thiết’!

Tàu cá Việt bị tàu Trung Quốc bắn tan hoang trên vùng biển của Việt Nam, nhưng ông Hồng Lỗi vẫn lớn tiếng cho rằng đây là hành động ‘chính đáng và cần thiết’?. Ảnh: Nguyễn Thành.

Truyền thông Trung Quốc và các hãng tin quốc tế dẫn lời Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc không thể chối cãi tàu cá Việt Nam bị hư hại, nhưng họ lại tuyên bố đây là hành động  ‘dạy cho các ngư dẫn phải tránh xa’ vùng biển thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam, nhưng ông này trơ tráo nói rằng thuộc chủ quyền Trung Quốc!

Bất chấp thực tế về việc tàu cá Việt bị bắn cháy khi đang đánh bắt cá trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, ông Hồng Lỗi tuyên bố: “Hành động đáp trả của Trung Quốc đối với các tàu cá Việt đánh bắt bất hợp pháp là hợp lý và cần thiết”.

Không chỉ vậy, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn lớn tiếng: “Chúng tôi hi vọng phía việt nam sẽ có những bước đi cần thiết trong việc giáo dục và quản lý ngư dân nhằm chấm dứt những hành động bất hợp pháp như vậy (đánh bắt cá trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam – P.V)”.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi.
Điều đáng nói, tàu cá Việt Nam đã bị tấn công dù  không có hành động chống trả, không có vũ khí ngay trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. “Chúng tôi ngồi trước mũi tàu để tàu Trung Quốc thấy rõ mình không có hành động chống trả, không có vũ khí. Khi tàu áp sát khoảng 20m thì tàu Trung Quốc nổ liền 4 – 5 phát súng vào cabin, ca bin bốc cháy dữ dội”, chủ tàu Bùi Văn Phải kể với phóng viên báo.

Hành động này đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, trái với tinh thần Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).

PhiaViệt Nam kiên quyết phản đối, yêu cầu phía Trung Quốc điều tra, xử lý nghiêm hành động sai trái và vô nhân đạo nói trên, bồi thường thiệt hại cho ngư dân Việt Nam”. Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại Sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội trao công hàm phản đối việc làm nói trên của phía Trung Quốc. Song chúng ta đều biết “Nước đổ đầu vịt”! Lối cư xử của Trung Quốc là thói ‘du côn’ lấy thịt đè người của những kẻ ‘côn đồ nghịch tử’!

Trung Quốc thường khoe khoang về ngàn năm văn hiến của họ, nhưng thế giới chỉ biết đến họ suốt nhiều ngàn năm qua cũng vẫn là hình ảnh anh ‘Tàu Ô’ mặc quần ‘tà lỏn’, cái khăn đẫm mồ hôi cáu bẩn vắt trên vai, mình mẩy bóng nhẫy mỡ và luôn miệng “tả tả…”…(Đánh, đánh…). Liệu có ngày nào Trung Hoa sẽ có được một hình ảnh đẹp trong mắt nguwofi dân láng giềng và Thế giới?

Thật đáng thương cho một dân tộc chỉ vì thói hành xử của giới chóp bu Trung Nam Hải đã bôi nhọ, làm nhục cả một dân tộc Trung Hoa vĩ đại với những Hồng Lâu Mộng… Thủy Hử với 108 anh hùng Lương Sơn Bạc biểu trưng của sự khí khái, nghĩa hiệp và lòng quả cảm còn đâu mất rồi???

Ông bà ta có câu “Con hơn cha là nhà có phúc”! Nhân dân Trung Hoa hôm nay thật Vô Phúc khi giới lãnh đạo Trung Nam Hải đã hành động VÔ SỈ, ĐÊ HÈN còn hơn cả khi ‘Thoát Hoan chui ông đồng trốn chạy năm nào’ khiến láng giềng khinh bỉ! Thậm chí câu nói của vị Thủ Tướng một nước Asean “Chúng tôi chia buồn với Việt Nam vì xa Thiên đường mà gần Trung Quốc” đang thay thế thành ngữ “Xa Thiên đường mà gần địa ngục“!
Trần Ái Quốc
Tổng hợp

Categories: Biển Đông | Leave a comment

Hải chiến Trường Sa 1988: cá mập (KỲ 3)

 

TuanVietNam

27/07/2011 06:10 GMT+7
 

Hải chiến Trường Sa 1988: cá mập (KỲ 3)

 Đạn pháo hay AK của Trung Quốc vẫn chưa phải đã hết. Các chiến sĩ còn phải đối diện với một điều khủng khiếp khác: cá mập. 
 

Hải chiến Trường Sa 1988: cá mập (KỲ 3)
Hải chiến 1988: bất tử trên đảo Gạc Ma (KỲ 2)
Gặp những người lính trong trận hải chiến Trường Sa 1988
Gặp nhân chứng trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974

Khi tạm biệt người vợ vừa cưới ra đi, chỉ đến lúc lên tàu anh Lê Văn Đông cùng các đồng đội mới được biết nhiệm vụ của các anh là đi đóng giữ ba đảo đá quan trọng của Trường Sa.

Khi lính Trung Quốc bắt đầu đổ bộ lên Gạc Ma và uy hiếp chiến sĩ trên đảo, những người ngoài tàu, trong đó có anh Đông, được lệnh vẫn bình tĩnh, kiên quyết làm tiếp nhiệm vụ bốc xếp vật liệu xuống các xuồng nhôm để chở vào đảo.

Khi nghe tiếng súng nổ ở đảo Gạc Ma, các chiến sĩ dồn sang một bên boong tàu nhìn bất lực, trong tay không có vũ khí. Lúc này Trung Quốc cho các xuồng nhỏ chạy quanh tàu Việt Nam gọi loa xua đuổi, đe dọa bắt tàu rời khỏi khu vực đảo. Chỉ sau đó ít lâu, tàu bị dập pháo mù mịt.

Nhiều chiến sĩ đang bốc xếp hàng trên boong trúng đạn tử thương tại chỗ. Anh Đông bị thương. Chỉ được vài phút con tàu gần như bị phá hủy và bắt đầu chìm. Nhiều chiến sĩ, hoặc bị bắn rơi, hoặc chủ động nhảy xuống biển. Anh Đông cũng nhảy xuống. Như anh kể, lúc tàu nghiêng xuống và chìm dần, áp lực nước đẩy anh và một số người ra xa.

Tàu to và chìm quá nhanh. Tôi còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra. Khi nhảy xuống biển, nhìn sang xung quanh thấy anh em thương vong, vẫy vùng, nhiều người không biết bơi. Tôi uống đầy bụng nước, sờ tay lên mặt và người đầy máu. Tiếng súng nổ, tiếng la hét hỗn loạn. Nhiều anh em khóc. Tôi lúc đó cũng hoang mang và tủi thân, nghĩ chắc chắn mình sẽ chết. Tôi thầm chào vĩnh biệt ba mẹ, anh em và vợ rồi cũng khóc. Lúc đó thật hoảng loạn“, anh Đông kể.

 

Anh Lê Văn Đông (phải) và anh Trần Thiện Phụng (anh Phụng cũng là 1 trong 9 người bị bắt đi Trung Quốc), Ảnh anh Lê Văn Đông cung cấp

Sau đợt dập pháo, Trung Quốc cho xuồng nhỏ chạy quanh xả AK vào những chiến sĩ đang dập dềnh trên biển. Anh Đông may mắn vớ được một thanh gỗ trôi nổi và một vỏ bao tải gạo phủ lên đầu.

Được một lúc, anh Đông gặp một đồng đội cũng đang ôm một mảnh gỗ. Anh bị thương rất nặng đang hấp hối. Anh thều thào nhờ anh Đông nếu còn sống thì giúp chuyển lời về gia đình anh, nhưng chưa kịp hết câu thì tắt thở. Một tay bị thương tê liệt, một tay ôm mảnh gỗ, anh Đông trôi nổi trên biển nhiều giờ đồng hồ.

Cùng trong nhóm chiến sĩ đang bốc xếp hàng trên boong với anh Đông, nhưng anh Mai Văn Hải không biết bơi. Khi pháo bắn vào, anh Hải và nhiều chiến sĩ người chạy vào trong khoang tìm chỗ trú ẩn, người chạy vào kho vũ khí. Theo lời anh Hải, các anh được trang bị súng AK, nhưng lúc đó toàn bộ súng… đang ở trong kho. Thậm chí có nhiều khẩu được tháo ra lau chùi còn chưa lắp lại. “Vì chúng tôi có định đánh nhau đâu. Toàn lính công binh, chỉ nghĩ đi xây nhà“.

 

Gia đình anh Mai Văn Hải đang xem lại đoạn phim tài liệu trong máy tính của phóng viên, Ảnh Hằng Nhom

Anh Hải nói trên tàu có lực lượng chiến đấu hải quân, sau đó có bắn trả nhưng lực lượng quá mỏng nên bị áp đảo.

Tàu chìm nhanh, anh Hải cùng số chiến sĩ trong khoang nhanh chóng chìm cùng tàu. Nhưng khi nước dồn vào khoang, áp lực nước lại đẩy anh Hải qua cửa sổ trồi lên mặt biển cùng một số đồ đạc. Anh Hải túm được mảnh gỗ và – cũng như anh Đông – trôi nổi trên biển.

Gần giống tình huống của anh Hải, nhưng khốc liệt hơn, anh Nguyễn Văn Thống – khi đó là Tiểu đội trưởng. Anh Thống là một trong những chiến sĩ đầu tiên mang cờ vào đảo. Trước đó, theo lệnh của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ, những chiến sĩ biết bơi mang cờ vào trước cắm định vị trên đảo. Anh Thống cùng một số chiến sĩ bơi vào cắm được cờ  trên đảo, sau đó anh quay ra nối dây từ đảo ra tàu để kéo xuồng ra vào đảo chở vật liệu.

Khoảng 6h sáng, khi Trung Quốc tấn công, anh Thống lúc đó đang ở trong cabin nấu ăn cho anh em. Pháo bắn trúng tàu, anh Thống bị một mảnh thành tàu (hoặc pháo?) phạt ngang mặt, rồi liên tiếp toàn thân trúng đạn. Khi tàu chìm ngập xuống nước, lật nghiêng, anh Thống cũng bị áp lực nước đẩy bắn ra ngoài qua cửa sổ cabin.

Anh Thống nói, khi tàu chìm và trước đó có nhiều chiến sĩ rơi xuống mặt biển, nhưng họ lập tức bị lính Trung Quốc chạy xuồng xung quanh dùng AK bắn hạ. (Anh Đông phải lấy bao tải đội lên đầu ngụy trang).

Tôi may mắn (hoặc không may?) hơn anh em khác là lúc đó đang ở trong cabin tàu. Tàu chìm ngập xuống nước rồi tôi mới bị bật lên, nổi lên trên chậm hơn anh em nên lính Trung Quốc không để ý. Hơn nữa, toàn thân tôi bị  thương dập nát nên họ cũng tưởng tôi chết rồi nên không bắn nữa” Anh Thống kể lại.

Vừa may một mảnh gỗ to trôi gần, anh Thống gắng sức trèo lên đó trôi dập dềnh. Sau đó một chiếc xuồng cao su trôi dạt đến gần, anh với sang nằm ngã gọn trong xuồng, và chính chiếc xuồng đã cứu anh thêm từ một tai họa nữa.

 

Anh Nguyễn Văn Thống, Ảnh Hằng Nhom

Đạn pháo hay AK của Trung Quốc vẫn chưa phải đã hết. Các chiến sĩ còn phải đối diện với một điều khủng khiếp khác: cá mập. Vùng biển Trường Sa được xác định có khá nhiều cá mập. Anh em lính vẫn bảo nhau đi xuồng nhỏ phải cẩn thận. Những người bị thương tuyệt đối không xuống bơi, ngửi thấy mùi máu chúng tấn công ngay. (Ông Phan Xuân Dạch, thủ trưởng cũ của anh Thống xác nhận đúng vùng biển này nhiều cá mập. Cách đây vài năm một chiến sĩ Trường Sa từng bị cá mập cắn mất một bên chân).

Bản thân anh Thống trong lúc dập dềnh đó cũng suýt bị làm mồi cho một con cá. Nó cố gắng tấn công anh ba lần nhưng chiếc xuồng cao su đã làm vật che đỡ cho anh Thống. Con cá khi không thể cắn đứt chiếc xuồng cao su thì bỏ đi. Ngay sau đó khoảng vài chục phút, anh Thống gặp anh Đông, nhưng chính anh Đông không nhận ra người đồng đội/đồng hương của mình đã bầm dập tơi tả.

Khoảng 5h chiều, Trung Quốc cho tàu nhỏ rà soát vùng biển. Anh Đông, anh Thống và 7 người khác (trong đó có anh Hải) bị Trung Quốc bắt. Đến đêm tàu Việt Nam tiếp cận được khu vực và cứu vớt thêm được một số đồng chí.

Kết thúc biến cố ngày 14/3/1988, Trung Quốc tạm thời chiếm giữ Gạc Ma và Len Đao. Nhờ hành động dũng cảm của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ và tập thể tàu HQ-505, tàu Việt Nam nằm án ngữ trên đảo Cô Lin và giữ được đảo này.

Phía Trung Quốc mất 8 binh sĩ. Việt Nam mất 3 tàu vận tải. Ngoài 9 người bị Trung Quốc bắt giữ, có 64 chiến sĩ hy sinh. Và đau lòng hơn cả, mãi sau này chỉ vài người được tìm thấy hài cốt. Những người còn lại – như anh Thống và anh Lê Văn Dũng nhận định – có thể đã làm mồi cho cá mập.

Vùng biển Gạc Ma một ngày đau đớn, ngập đỏ máu những người con trẻ trung của dân tộc. Đúng hôm nay (27/7/2011), chúng tôi ngồi viết lại những dòng chữ này ghi lại công ơn các anh. Nhân ngày Kỷ niệm Thương binh – liệt sĩ, xin thành kính gửi tới các anh lòng biết ơn và sự tiếc thương vô hạn. Tổ quốc và nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ quên các anh và nguyện sẽ tiếp bước các anh, quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

 

Danh sách 64 chiến sĩ đã hy sinh ngày 14-3-1988

1- Vũ Phi Trừ, quê Quảng Khê, Quảng Xương, Thanh Hóa.
2- Nguyễn Văn Thắng, quê Thái Hưng, Thái Thụy, Thái Bình.
3- Phạm Gia Thiều, quê Hưng Đạo, Trung Đồng, Nam Ninh, Hà Nam Ninh (nay là tỉnh Hà Nam)
4- Lê Đức Hoàng, quê Nam Yên, Hải Yên, Tĩnh Gia, Thanh Hóa.
5- Trần Văn Minh, quê Đại Tân, Quỳnh Long, Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh (nay là tỉnh Nghệ An).
6- Đoàn Đắc Hoạch, quê 163 Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, Hải Phòng.
7- Tạ Trần Văn Chức, quê Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình.8- Hán Văn Khoa, quê Văn Lương, Tam Thanh, Vĩnh Phú (nay là tỉnh Phú Thọ).9 – Trần Văn Phong, quê Hải Tây, Hải Hậu, Hà Nam Ninh (Nam Định).
10-   Nguyễn Văn Hải, quê Chính Mỹ, Thủy Nguyên, Hải Phòng.
11-  Nguyễn Tất Nam, quê Thường Sơn, Đô Lương, Nghệ Tĩnh.
12-  Trần Đức Bảy, quê Phương Phượng, Lê Hòa, Kim Bảng, Hà Nam Ninh (nay là tỉnh Hà Nam).
13- Đỗ Việt Thắng, quê Thiệu Tân, Đông Sơn, Thanh Hóa.
14-  Nguyễn Văn Thủy, quê Phú Linh, Phương Đình, Nam Ninh, Hà Nam Ninh (nay là Hà Nam).
15-  Phạm Hữu Đoan, quê Thái Phúc, Thái Thụy, Thái Bình.
16- Bùi Duy Hiền, quê Diêm Điền, Thái Thụy, Thái Bình.
17- Nguyễn Bá Cường, quê Thanh Quýt, Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam – Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam).
18- Kiều Văn Lập, quê Phú Long, Long Xuyên, Phúc Thọ, Hà Nội.
19- Lê Đình Thơ, quê Hoằng Minh, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
20- Cao Xuân Minh, quê Hoằng Quang, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
21- Nguyễn Mậu Phong, quê Duy Ninh, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (nay là Quảng Bình).
22- Trần Văn Phương, quê Quảng Phúc, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
23- Đinh Ngọc Doanh, quê Ninh Khang, Hoa Lư, Hà Nam Ninh (Ninh BÌnh).
24- Hồ Công Đệ, quê Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hóa.
25- Đậu Xuân Tư, quê Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).
26- Bùi Bá Kiên, quê Văn Phong, Cát Hải, Hải Phòng.
27- Đào Kim Cương, quê Vương Lộc, Can Lộc, Nghệ Tĩnh (Hà Tĩnh).
28- Phan Tấn Dư, quê Hòa Phong, Tuy hòa, Phú Khánh (Phú Yên).
29- Nguyễn Văn Phương, quê Mê Linh, Đông Hưng, Thái Bình.
30- Võ Đình Tuấn, quê Ninh Ích, Ninh Hòa, Phú Khánh (Khánh Hòa).
31- Nguyễn Văn Thành, quê Hương Điền, Hương Khê, Nghệ Tĩnh (Hà Tĩnh).
32- Phan Huy Sơn, quê Diễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).
33- Lê Bá Giang, quê Hưng Dũng, thành phố Vinh, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).
34- Nguyễn Thắng Hải, quê Sơn Kim, Hương Sơn, Nghệ Tĩnh (Hà Tĩnh).
35- Phan Văn Dương, quê Nam Kim, Nam Đàn, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).
36- Hồ Văn Nuôi, quê Nghi Tiến, Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).
37- Vũ Đình Lương, quê Trung Thành, Yên Thành, Nghệ Tĩnh.
38- Trương Văn Thinh, quê Bình Kiên, Tuy Hòa, Phú Khánh (Phú Yên).
39- Trần Đức Thông, quê Minh Hòa, Hưng Hà, Thái Bình.
40- Trần Văn Phong, quê Minh Tâm, Kiến Xương, Thái Bình.
41- Trần Quốc Trị, quê Đông Thạch, Bố Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

42- Mai Văn Tuyến, quê Tây An, Tiền Hải, Thái Bình.

43 – Lê Thế, quê tổ 29, An Trung Tây, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).
44- Trần Đức Hóa, quê Trường Sơn, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
45- Phan Văn Thiềng, quê Đông Trạch, Bố Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
46- Tống Sĩ Bái, quê phường 1, Đông Hà, Bình Trị Thiên (Quảng Trị).
47- Hoàng Ánh Đông, quê phường 2, Đông Hà, Bình Trị Thiên (Quảng Trị).
48- Trương Minh Phương, quê Quảng Sơn, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
49- Nguyễn Minh Tâm, quê Dân Chủ, Hưng Hà, Thái Bình.
50- Trần Mạnh Viết, quê tổ 36, Bình Hiên, thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng)
51- Hoàng Văn Túy, quê Hải Ninh, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
52- Võ Minh Đức, quê Liên Thủy, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
53- Võ Văn Tứ, quê Trường Sơn, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
54- Trương Văn Hướng, quê Hải Ninh, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
55- Nguyễn Tiến Doãn, quê Ngư Thủy, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
56- Phạm Hữu Tý, quê Phong Thủy, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
57- Nguyễn Hữu Lộc, quê tổ 22, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).
58- Trương Quốc Hùng, quê tổ 5, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).
59- Nguyễn Phú Đoàn, quê tổ 47, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).
60- Nguyễn Trung Kiên, quê Nam Tiến, Nam Ninh, Hà Nam Ninh (Nam Định).
61- Phạm Văn Lợi, quê Quảng Thủy, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
62- Trần Văn Quyết, quê Quảng Thủy, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Q. BÌnh).
63- Phạm Văn Sửu, quê tổ 7, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP Đà Nẵng).
64- Trần Tài, quê tổ 12, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP

Categories: Biển Đông | Leave a comment

NHỮNG HÀNH ĐỘNG MỚI CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG

BienDong.Net

BienDong.Net: Chỉ mới bước vào những ngày đầu năm 2013, Trung Quốc đã liên tiếp có các hành động quá khích mới ở Biển Đông, tập trung trên 2 lĩnh vực: một là, Trung Quốc tăng cường tập trận ở Biển Đông; hai là, Trung Quốc tăng cường các lực lượng chấp pháp (tàu hải giám, ngư chính, hải cảnh…) để trấn áp tàu cá và ngư dân Việt Nam.

Báo chí Trung Quốc ngang nhiên đưa nhiều tin, bài khuyếch trương cho các hoạt động bất hợp pháp này của Trung Quốc ở Biển Đông.

Theo báo China Daily ngày 20/3/2013, Hạm đội Nam Hải Trung Quốc đã đưa tàu đổ bộ Tỉnh Cương Sơn, tàu thuộc khu trục mang tên lửa Lan Châu, 2 khinh hạm Ngọc Lâm và Hành Thuỷ cùng 1 tàu đệm khí và 4 trực thăng vào tập trận ở Biển Đông. Báo này cho biết biên đội tàu nói trên của Trung Quốc sẽ thực hiện các bài huấn luyện lập chốt chỉ huy, tác chiến linh hoạt trên biển, chi viện tác chiến cấp tốc và hộ tống thuyền… nhằm “nâng cao khả năng chiến thắng” và thực hiện nhiệm vụ “bảo vệ lợi ích biển đảo quốc gia”. Hiện Hạm đội Nam Hải có 3 tàu đổ bộ lớn là Tỉnh Cương Sơn, Côn Luân Sơn và Trường Bạch Sơn có thể triển khai hoạt động ở Biển Đông.

Báo China Daily của Trung Quốc còn đưa tin Trung Quốc đã công bố nhân sự của Cục Cảnh sát biển vừa được cơ cấu lại sau kỳ họp Quốc hội Trung Quốc. Theo đó, Thứ trưởng Bộ Công an Trung Quốc Mãnh Hồng Quân sẽ kiêm nhiệm vị trí Cục trưởng Cục Cảnh sát biển và Cục phó Cục Hải dương quốc gia. Hai cục này sẽ phối hợp với nhau chỉ đạo hoạt động của các lực lượng “chấp pháp trên biển” như Hải giám, Ngư chính, Tuần duyên …. Trong thời gian gần đây, các lực lượng này, nhất là Hải giám và Ngư chính liên tục hoạt động sâu trong vùng biển của Việt Nam, thường xuyên uy hiếp, bắt bớ tàu cá và ngư dân Việt Nam đang hoạt động bình thường ở Biển Đông.

Ngày 10/3/2013, Tân Hoa xã của Trung Quốc ngạo mạn đưa tin về việc khởi động chương trình “tuần tra bảo vệ ngư dân Trung Quốc” của các lực lượng chấp pháp Trung Quốc với việc đưa 2 tàu Ngư chính 310 và Ngư chính 301 vào hoạt động ở Biển Đông. Quan chức của Trung Quốc Lưu Quế Mậu còn ngang nhiên tuyên bố trong năm 2013 sẽ có 21 tàu ngư chính với khoảng 3.000 nhân viên sẽ vào hoạt động ở Biển Đông, xuống tận khu vực quần đảo Trường Sa.

Cũng trong thời gian này, 3 tàu hải giám của Trung Quốc là Hải giám 83, Hải giám 262 và Hải giám 263 chở theo trực thăng tiến hành tuần tra ở khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Ngày 07/3/2013, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị đã lên tiếng phản đối các hành động của Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, bất chấp những ý kiến của đó của Việt Nam, các tàu chấp pháp của Trung Quốc tiếp tục uy hiếp, đe doạ tàu cá và ngư dân Việt Nam với mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây tình hình căng thẳng ở Biển Đông. Từ đầu năm đến nay, đã xảy ra hàng chục vụ việc tàu Hải giám và Ngư chính của Trung Quốc uy hiếp, đe doạ tàu cá và ngư dân ở khu vực quần đảo Hoàng Sa.

Thời gian qua, nhiều ngư dân đã lên tiếng tố cáo hành động của Trung Quốc như: ngày 11/3 tàu QNg 96697 TS của ông Lê Khởi ở Quảng Ngãi đã bị tàu Hải giám xua đuổi. Khi tàu chấp pháp Trung Quốc dồn ép không thành thì bắt đầu phun vòi rồng vào thuyền nhằm mục đích nhấn chìm tàu cá, thậm chí các lực lượng chức năng của Trung Quốc chĩa súng vào các tàu cá của Việt Nam đe doạ. Ngày 16/3 tại khu vực đảo Xà Cừ tàu QNG 50949 TS của ông Bùi Văn Lâm cùng 8 thuyền viên của xã Bình Châu, Bình Sơn (Quảng Ngãi) đã bị tàu tuần tra sơn trắng (Hải giám) mã hiệu 306 đe dọa. Thấy tàu cá Việt Nam, tàu Hải giám Trung Quốc huy động ca nô truy đuổi. Khi bắt kịp, các quan chức Trung Quốc nhảy lên tàu, đập phá ngư cụ, cướp hải sản, thiệt hại ước tính hàng trăm triệu đồng.

Đáng chú ý là các tàu chấp pháp của Trung Quốc còn uy hiếp, đe doạ cả các tàu cứu nạn của Việt Nam. Ngày 17/3/2013, ông Trần Văn Long, Giám đốc Trung tâm Tìm kiếm cứu nạn Hàng hải khu vực II (Danang MRCC) tiết lộ, Ngày 12/3/2013 trong khi tàu SAR 412 của Việt Nam đang tiến hành cứu nạn một ngư dân tại Hoàng Sa đã bị một tàu Trung Quốc đuổi bắt trong vùng biển giữa hai đảo Bom Bay và Tri Tôn. Mặc dù phía Trung Quốc nhận diện đây là tàu cứu nạn của Việt Nam nhưng vẫn rọi đèn, đe dọa. Đây là vụ quấy rối tàu chính phủ Việt Nam đầu tiên của năm 2013 được công khai trên báo chí, ngay sau vụ tàu Hải giám Trung Quốc tấn công tàu cá Việt Nam. Cái được gọi là lực lượng chấp pháp trên Biển Đông của Trung Quốc đang ngày càng hung hăng, nguy hiểm trên Biển Đông.

Không dừng ở đó, hành động của tàu Trung Quốc ngày càng hành động táo tợn hơn. Nghiêm trọng hơn là ngày 20/3/2013, tàu Trung Quốc đã chính thức nổ súng vào tàu cá Việt Nam, kéo dài chuỗi hành động từ uy hiếp và đến nay đã đe dọa tính mạng ngư dân. Khoảng 10h sáng ngày 20/3, trong khi chuẩn bị kết thúc phiên đánh bắt tại khu vực đảo Lin Côn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, tàu QNg 96382 TS của thuyền trưởng Bùi Văn Phải đã bị tàu Trung Quốc hùng hổ truy đuổi; tàu QNg 96382 TS buộc phải chạy thẳng. Sau 30 phút rượt đuổi, lực lượng chức năng Trung Quốc đã nổ súng vào tàu QNg 96382 TS. Lửa bắt vào nóc cabin phủ nhựa cháy ầm ầm, cá bị bắn tả tơi, đồ đạc cháy nham nhở.

Việc làm nói trên của các lực lượng chức năng Trung Quốc chẳng khác nào hành động của những kẻ côn đồ cướp biển. Không rõ khi hành động như vậy những quan chức đó của Trung Quốc có nghĩ đến “16 chữ vàng” hay “tinh thần 4 tốt” mà những người cầm quyền ở Bắc Kinh luôn rêu rao trong quan hệ với Việt Nam hay không? Và không rõ những người lãnh đạo ở Hà Nội có nhận ra bộ mặt thật của Bắc Kinh “giả danh những người cộng sản” để ru ngủ họ hay không. Hành động của Chính phủ Hà Nội trong việc bảo vệ ngư dân thời gian qua còn quá yếu ớt, đây chính là nguyên nhân làm cho Trung Quốc càng được đà lấn tới.

Cuối tháng 11/2012, tỉnh Hải Nam của Trung Quốc ban hành Điều lệ cho phép các lực lượng chức năng của Trung Quốc kiểm tra, lục soát các tàu của nước ngoài ở Biển Đông và ông Giám đốc Ngoại vụ tỉnh Hải Nam lớn tiếng nói rằng Điều lệ này là nhằm vào tàu cá, ngư dân Việt Nam. Hành động của tàu chấp pháp và các lực lượng chức năng Trung Quốc từ đầu năm 2013 đến nay quả thật là đúng như lời của ông Giám đốc Ngoại vụ tỉnh Hải Nam.

Những vụ việc gây hấn với tàu cá Việt Nam kể trên mới chỉ là bước khởi đầu cho việc triển khai thực hiện Điều lệ của tỉnh Hải Nam, có thể sẽ có thêm nhiều vụ tương tự khi biên đội Hải giám, Ngư chính Trung Quốc ngày càng hoạt động trắng trợn, dồn ép ngư dân Việt Nam. Chính phủ Hà Nội cần phải lên tiếng mạnh mẽ phản đối những hành động cướp biển của các lực lượng chấp pháp Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời phải đầu tư hiện đại hóa các lực lượng giám sát trên biển để bảo vệ ngư dân, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước.

Với việc đưa vào Biển Đông 21 tàu Ngư chính loại cực lớn có trang bị cả trực thăng, vũ trang hùng hậu với tổng cộng 3.000 nhân viên như nêu ở phần đầu bài viết nếu không có sự bảo vệ và hậu thuẫn của chính phủ thì dù ngư dân Việt Nam có kiên cường bám biển đến bao nhiêu cũng sẽ bị đánh bật ra khỏi các ngư trường truyền thống lâu nay.

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam. Các nhà nước phong kiến Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách hoà bình, liên tục ít nhất là từ thế kỷ 17 – 18. Đây là ngư trường đánh bắt truyền thống của ngư dân Việt Nam từ bao đời nay. Bất chấp sự đe doạ của các lực lượng chấp pháp Trung Quốc, ngư dân Việt Nam vẫn kiên cường bám biển, góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước. Bên cạnh việc đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của ngư dân, Chính phủ Hà Nội cần có những chính sách thoả đáng hỗ trợ về vật chất cho họ yên tâm bám biển. Nếu Trung Quốc tiếp tục lấn tới Hà Nội cần tính đến việc đưa vấn đề này ra cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết vì hành động của các lực lượng chấp pháp Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật pháp quốc tế./.

Categories: Biển Đông | Leave a comment

CUỘC ĐỜI BÁC SỸ RICHARD TEO

CUỘC ĐỜI BÁC SỸ RICHARD TEO

(03/17/2013) (Xem: 697)
SUY NGẪM VỀ LỜI PHẬT DẠY QUA
CUỘC ĐỜI BÁC SĨ RICHARD TEO  
Tâm Minh Ngô Tằng Giao

     Bác sỹ phẫu thuật thẩm mỹ RICHARD TEO KENG SIANG sinh năm 1972. Tốt nghiệp đại học Singapore năm 1993. TEO là một bác sỹ trẻ nổi tiếng tại Singapore và cũng là một tay triệu phú kiếm tiền như nước. Tuy thỉnh thoảng mới hút thuốc lá TEO vẫn bị ung thư phổi vào giai đoạn 4. Người ta biết đến anh, nhớ về anh không phải vì anh đã thành công trong việc tạo ra một câu chuyện cảm động từ chính cuộc đời mình mà là bài học anh rút ra từ bi kịch mà anh trải qua. Câu chuyện của anh được lan truyền trên mạng như một điển hình cho sự thành công và hạnh phúc. Đó cũng là một câu chuyện điển hình của sự phụ thuộc vào vật chất, chuyện của những bác sĩ đặt y đức sau đồng tiền.

Sau khi lâm trọng bệnh, trong một buổi nói chuyện với các sinh viên đại học nha khoa vào tháng 1 năm 2012 TEO đã thốt ra những lời tâm tình về sự hưởng thụ tiền tài và tham đắm danh vọng v.v…  qua kinh nghiệm cuộc đời mình.

Bác sỹ TEO nói: Tôi nghĩ cần chia sẻ với các bạn vài cảm nghĩ về cuộc đời tôi… hy vọng nó sẽ giúp các bạn vài suy ngẫm về tương lai và cả về những vấn đề khác nữa trong khi các bạn đang thực tập để trở thành bác sỹ giải phẫu nha khoa. Khi còn trẻ tôi là một thành phần điển hình của xã hội hiện đại. Một thành phần tương đối thành công mà xã hội đang cần đến. Thuở nhỏ tôi xuất thân từmột gia đình dưới mức trung bình. Tôi nghe dư luận và những người chung quanh tôi cho biết rằng chỉ có hạnh phúc khi mình thành công… Và sự thành công ấy chính là sự giàu có. Với ý nghĩ ấy trong đầu tôi cật lực đấu tranh ngay từ thời trẻ. Không những tôi cần theo học trường tốt nhất mà tôi còn cần phải thành công trong mọi lãnh vực…

Thời còn ngồi ở giảng đường trường đại học quốc gia Singapore, TEO là một trong những sinh viên giỏi. Anh cho biết là đã phấn đấu kịch liệt từ khi còn trẻ để giỏi trong mọi lãnh vực… Anh muốn đạt nhiều chiến lợi phẩm, nhiều giải thưởng với những thành tích đủ loại, kể cả trong những cuộc đua tranh chạy thi. Rồi anh vào học trường y khoa và trở thành bác sỹ. Thời ấy ngành giải phẫu mắt là chuyên khoa được chuộng nhất nên anh quyết định theo học khoa đó. Đồng thời anh cũng nhận được một học bổng về nghiên cứu chuyên trị mắt bằng máy laser. Vào giai đoạn này anh được cấp 2 bằng sáng chế, một là cho thiết bị y khoa, cái thứ hai cho kỹ nghệ laser.

Nhưng TEO nói: “Các bạn biết đó, sự thành tựu trong học hỏi từ nhà trường không mang lại sự giàu có.” Anh nghĩ việc nghiên cứu và học học hỏi về phẫu thuật mắt mất quá nhiều thời gian. Và có lẽ kiếm nhiều tiền hơn nếu ra ngoài làm việc cho lãnh vực tư, nhất là lúc đó ngành phẫu thuật thẩm mỹ tăng trưởng mạnh mẽ. Anh bỏ cuộc nghiên cứu nửa chừng và quyết định ra đi thành lập viện phẫu thuật thẩm mỹ của riêng mình. Theo anh người ta không trở thành nhất hạng nếu chỉ làm bác sỹ toàn khoa hay bác sĩ gia đình mà thôi. Chỉ khi chữa cho người giàu có và tiếng tăm mới kiếm chác được.

     TEO đưa ra nhận xét: Người ta không hài lòng khi trả 20 đô để khám một bác sỹ tổng quát. Cùng bệnh nhân ấy họ không ngần ngại trả 10 ngàn đô để hút mỡ bụng, 15 ngàn đô để sửa nâng ngực, và những việc tương tự như thế… Thật là khùng điên phải không? Tại sao bạn muốn trở thành bác sỹ tổng quát nhỉ?  Hãy học ngành bác sỹ thẩm mỹ đi.”

Cho nên, thay vì chữa cho các người đau ốm bệnh hoạn, TEO quyết định mình sẽ trở thành một tay tạo sắc đẹp danh tiếng. Việc làm ăn khấm khá. Khởi đầu thân chủ của anh phải đợi một vài tuần, rồi tới một vài tháng. Khi có quá nhiều khách hàng anh phải thuê thêm bác sỹ phụ giúp, lần hồi thuê tới 4 người. Trong năm đầu lợi tức lên đến bạc triệu. TEO nói: “Chỉ năm đầu thôi đấy. Nhưng không bao giờ gọi là đủ cả vì tôi quá bị ám ảnh bởi chuyện đó. Tôi bắt đầu bành trướng sang Nam Dương để lôi cuốn những người giàu có, họ nhắm mắt sẵn sàng phung phí tiền bạc, mong muốn làm phẫu thuật. Và cuộc đời thật tốt đẹp.”

TEO kiếm bộn bạc! Phải làm gì với tiền bạc dư thừa đây? Tiêu khiển cuối tuần cách nào? Cách hay nhất là nhập vào câu lạc bộ đua xe, mua 1 chiếc xe đua, dự đua xe… Anh mua một chiếc Ferrari màu trắng bạc rất đắt tiền. Lái xe bị tai nạn 3 lần nhưng may mắn không hề hấn gì. Rồi tới lúc phải đi tìm một mảnh đất để xây một dinh thự lộng lẫy cho riêng mình hưởng thụ giá cả hàng chục triệu. Rồi đi săn bắn. Rồi phải hội nhập với những người giàu có và tăm tiếng. Cả với những người đẹp nữa chứ. Chịu chi rất nhiều cho những bữa ăn tối tại những nhà hàng nổi tiếng với những tay đầu bếp trứ danh. TEO nói: “Như vậy là tôi đã đạt đến tột đỉnh của cuộc sống mà mọi người hằng mơ tưởng. Vâng đấy là cuộc sống của tôi… Tôi vẫn nghĩ là tôi đã tự chủ được mọi thứ và đạt được cực điểm ấy.”

     TEO khàn giọng thổ lộ chuyện buồn: “Nhưng tôi đã lầm. Tôi đã không nắm giữ được tất cả mọi thứ. Vào khoảng tháng Ba năm ngoái, tôi cảm thấy hơi đau ở đâu đó giữa lưng…” Anh tưởng đau là vì làm việc nhiều mà thôi nhưng đi khám bệnh mới phát giác ra là anh đã bị ung thư phổi thời kỳ thứ tư (giai đoạn cuối). Quay trở lại nhà thương lần nữa để kiểm soát bằng những phương pháp tối tân hơn. Kết quả cũng vậy. Ung thư đã lan tới não, cột sống và nội tuyến. Bác sỹ cho biết dù với việc “hoá trị” anh cũng chỉ sống thêm được từ 3 đến 4 tháng là cùng. TEO tuyệt vọng và suy sụp tinh thần. Anh tưởng đã đạt đến cực điểm của cuộc đời và nghĩ tất cả nằm dưới tầm tay của mình nhưng than ôi, giờ đây thế là mất tất cả! Anh cho biết thường đi Gym để tập, nào chạy, nào bơi, nào tập tạ, 6 ngày một tuần. Vậy là dù người khoẻ mạnh cũng có thể lâm bệnh chứ không phải chỉ những người yếu đuối và lười biếng tập mới bị.

TEO tâm sự: “Bạn thấy nực cười chăng sau khi tôi có được tất cả nào là sự thành công, các chiến tích, có xe hơi, dinh th, có mọi thứ. Tôi nghĩ những cái đó mang lại cho tôi hạnh phúc. Nhưng tôi cảm thấy thật là xuống tinh thần, trầm cảm nặng nề. Những thứ ấy không mang lại cho tôi một chút gì sung sướng… Nó chẳng mang lại cho tôi chút thoải mái nào trong 10 tháng trời cuối cuộc đời này… ”

      TEO nhấn mạnh: “Cái thực sự mang lại vui sướng trong 10 tháng cuối đời là giao tiếp với mọi người, những người thân yêu của tôi, bạn bè tôi, những người thật sự lưu tâm đến tôi, họ cùng cười cùng khóc với tôi, và họ có thể nhận thức ra cái đau đớn và sự khổ não mà tôi phải gánh chịu. Cái điều đó mang lại cho tôi niềm vui và hạnh phúc…”

TEO nói mỗi dịp tết Nguyên Đán là anh lại lái xe Ferrari đi thăm bạn bè, bà con dòng họ để khoe khoang, rất hãnh diện và thoả mãn tự ngã, nghĩ đó là hạnh phúc thật sự. Nhưng bạn bè và dòng họ với cuộc sống khó khăn đã không chia sẻ niềm hạnh phúc hân hoan này vì trong khi đó họ phải dùng phương tiện công cộng để di chuyển. Những gì Teo khoe khoang làm cho họ càng sinh ra ganh tị và càng ghét anh hơn.

TEO kể thêm một câu chuyện khác là khi còn ở trong nội trú có quen một cô bạn gái mà lúc đó anh nghĩ việc cô này làm là bất bình thường: “Khi tôi và cô ấy đi bộ dọc theo con đường, nếu trông thấy một con ốc sên bò giữa đường cô ấy sẽ không ngần ngại nhặt con ốc sên ấy lên và đ vào bên bờ cỏ. Tôi đã tỏ thái độ là tại sao nhất thiết phải làm điều đó? Sao lại tự làm bẩn tay mình? Nó chỉ là một con ốc sên. Thực sự cô ấy đã cảm thấy như mình là con ốc đó. Nhận thấy con vật sẽ bị nghiền nát đến chết là có thực với cô ấy, nhưng với tôi nó cũng chỉ là con ốc sên không hơn không kém.”

     TEO rút ra kết luận về chuyện ốc sên đó: “Nếu không thể ra khỏi lối mòn của loài người thì sau đó bạn xứng đáng bị nghiền vụn, nó cũng là một phần của tiến hóa phải không? Thực trớ trêu phải không?… Tôi được huấn luyện để trở thành một bác sỹ, để có lòng nhân từ và cảm thông nhưng tôi lại không có những thứ ấy.”

TEO cho biết anh là một bác sỹ trực trong bệnh viện chuyên trị ung thư, đã từng chứng kiến bao nhiêu người chết, đã nhìn thấy nhiều bệnh nhân đau đớn vì sự tàn phá của cơ thể. Mỗi khi anh phải tiêm thuốc cho bệnh nhân, rút máu và đưa thuốc cho bệnh nhân, tất cả chỉ đơn thuần là công việc. Bệnh nhân là bệnh nhân, anh vẫn là anh. Khi xong việc anh chỉ muốn về nhà ngay. Bởi trong thâm tâm anh không thông cảm là họ đau đớn như thế nào cho đến khi chính anh cũng bị như vậy. Anh tâm sự: Nếu các bạn hỏi tôi nếu giờ đây mà tôi sốngtrở lại từ đầu thì tôi sẽ là một bác sỹ khác không, tôi có thể trả lời các bạn rằng vâng tôi sẽ đổi khác. Vì tôi đã thật sự đồng cảm với cơn đau đớn mà các bệnh nhân phải gánh chịu như thế nào. Và nhiều khi bạn phải học nó một cách khó khăn”.

     TEO cho biết thông thường khi ra trường các bác sỹ làm việc trong viện nha khoa tư sẽ kiếm rất nhiều tiền bạc. Đó là cách làm giàu lương thiện. Vấn đề ở chỗ là đa số không làm chủ được mình. Anh nói: “Tại vì khi tôi khởi sự tích lũy làm giàu, càng nhiều tiền tôi lại càng muốn kiếm nhiều hơn nữa. Càng muốn kiếm nhiều tôi lại càng bị chuyện đó ám ảnh mãi.” Tất cả điều anh muốn là say mê làm tiền: “Các bệnh nhân chỉ là nguồn lợi tức cho tôi và tôi cố gắng rút từng cắc bạc của bệnh nhân này”… “Nhiều khi chúng ta quên bng đi là chúng ta phục vụ cho ai. Và chúng ta lầm lạc nghĩ là chúng ta chỉ phụng sự riêng cho cá nhân chúng ta”… “Tôi cảm thấy chúng tôi mất dần đạo đức một lương y cũng chỉ vì ai cũng muốn làm thật nhiều tiền mà thôi.”

TEO thú nhận thêm là vài năm gần đây còn đem trò bêu xấu đồng nghiệp trong nghề để lấy thêm lợi thế cho mình mà không cảm thấy xấu hổ gì cả. Anh khuyên các sinh viên là không nên đánh mất cái đạo đức và lương tâm con người.

TEO nói là đa số khi bắt đầu công việc đều vô cảm đối với bệnh nhân. Không màng tới nỗi sợ hãi và lo âu của bệnh nhân và những thứ khác mà họ đã trải qua. Đến khi anh lâm trọng bệnh anh mới thông cảm điều đó và cho đó là một sai lầm to lớn nhất của hệ thống y khoa tân tiến. Anh mong các sinh viên hãy luôn luôn tự đặt mình vào trường hợp bệnh nhân để hiểu tâm trạng đau đớn của họ. Nhất là người bị bệnh ung thư, họ bị dằn vặt về tinh thần, sống mất hết hy vọng, biết rằng chỉ một thời gian ngắn nữa họ sẽ vĩnh viễn nằm yên dưới lòng đất. Anh nói: “Trên đời này sự đau đớn, sự lo âu và sợ sệt là hiện thực mặc dù nó không thực đối với các bạn nhưng nó là sự thật đối với bệnh nhân. Luôn nhớ điều ấy, bây giờ tôi đang trải qua lần hoá trị liệu thứ năm. Tôi nói thật với các bạn đó là một cảm giác kinh khủng.”… “Đừng nghĩ là chỉ có người nghèo mới chịu sự đau đớn. Không đúng thế. Nhiều người nghèo đó thoạt tiên chẳng có được chi nhiều, họ dễ dàng an phận hơn chúng ta. Như ta biết họ còn hạnh phúc hơn ta nữa là khác.”

TEO nhận ra rằng càng tích tụ, anh càng trở nên ham muốn và càng có động lực để đạt được. Thành công, giàu có không có gì sai trái nhưng sự lệ thuộc và không thể kìm hãm lòng ham muốn mới chính là vấn đề. Anh chia sẻ điều này sau nhiều năm miệt mài kiếm tiền và hả hê với những món của cải mà anh đạt được. Cuối bài nói chuyện với các sinh viên TEO kết luận là không có gì giúp ta hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống bằng cái chết: “Tôi xin kết thúc với câu trích dẫn ở đây, lấy từ một quyển sách có tựa đề là nhng ngày Thứ Ba với Morris, và hẳn một vài bạn cũng đã đọc nó rồi. Mọi người đều biết rằng họ đều sẽ phải chết; từng người trong chúng ta đều biết điều đó. Sự thực là, chẳng một ai trong chúng ta lại tin điều đó vì nếu chúng ta tin thời chúng ta sẽ hành sử khác đi rồi. Khi tôi đối mặt với cái chết, khi tôi phải chịu như thế, đó cũng là lúc tôi hoàn toàn dẹp bỏ mọi thứ khỏi cái tôi và chỉ tập trung vào những chuyện quan trọng. Điều trớ trêumuôn đời, là chỉ khi nào chúng ta học biết được thế nào là cái chết thời lúc đó chúng ta mới hay biết phải sống như thế nào. Tôi biết điều đó nghe thật là thảm não vào một buổi sáng như thế này, nhưng đó là sự thật đấy, đó là những gì mà tôi đang trải qua.”

     TEO nói thêm: “Đừng để xã hội dạy bạn cách sống như thế nào. Đừng để phương tiện truyền thông chỉ dẫn cho bạn phải làm những gì Tôi hy vọng bạn sẽ suy nghĩ kỹ cho bạn một hướng đi của chính bạnĐừng nghe lời xúi dục của xã hội mà hãy nghĩ đến những gì bạn muốn thực hiện và làm tốt cho đời sống người khác. Vì sự hạnh phúc thực sự không phải là phục vụ cho chính bạn. Tôi vẫn nghĩ như thế nhưng tôi đã lầm.”

     Bác sỹ RICHARD TEO KENG SIANG qua đời ngày 18 tháng 10 năm 2012 khi mới có 40 tuổi. Anh lấy vợ được 6 năm và chưa có con. Sau khi tích cực đua tranh trong cuộc đời, sau khi ngụp lặn trong tiền bạc, sau khi hả hê với danh vọng, chỉ khi cận kề với tử thần anh mới rút tỉa ra được đôi điều chân lý. Khi lìa đời thời của cải bạc triệu cũng không còn nghĩa lý gì nữa “In the end, his millions meant…nothing”, xe hơi bạc triệu cũng tuột khỏi vòng tay mình “I can’t hug my Ferrari.”TEO không phải là một tín đồ Phật Giáo nên không hay biết rằng những điều này đã được đức Phật dạy từ lâu lắm rồi.

Quá chau chuốt về bản thân mình, nào ai thấu về lý “Vô ngã” nghĩa là không có cái “Ta”, không có cái bản ngã, cái bản thể. Nên nhớ rằng đối với người, đối với mình, đối với mọi vật không chấp có một cái thân thể thường tồn, nhất định. Đó chỉ là một cái thân do ngũ uẩn tạm thời hòa hợp mà thôi.

(Pháp Cú 279)
Mọi sinh vật có thật đâu
Thảy đều “vô ngã”, “ta” nào là “ta”
Trí người nếu hiểu rõ ra
Thoát ly phiền não cho xa tức thời,
Theo đường thanh tịnh tuyệt vời.

     Quá tham đắm với của cải, tham lam với danh vọng, nào ai thấu được tham là một trong tam độc “tham, sân, si.” Ở đời, có năm món dục lạc, mà người ta thường ham muốn nhất là: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. “Ngũ trần dục lạc” ấy, thật ra, vui ít mà khổ nhiều.

(Pháp Cú 355)
Giàu sang, tài sản dồi dào
Chỉ làm hại được kẻ nào ngu thôi,
Dễ gì hại được những người
Đang cầu giác ngộ hướng nơi Niết Bàn,
Chỉ vì ham muốn giàu sang
Kẻ ngu tự hại bản thân đã đành
Hại thêm cả kẻ xung quanh.

     Quả thật danh vọng, tiền bạc v.v… chỉ là những thứ phù du mà con người ai cũng chạy theo đua đòi. Hiếm có ai như Steve Jobs, người sáng lập thương hiệu máy tính Apple. Ông từng viết rằng “Khi 23 tuổi, tôi đáng giá 1 triệu đô la. Khi 24 tuổi tôi đáng giá 10 triệu. Khi tôi 25, tôi đáng giá 100 triệu. Nhưng điều đó không quan trọng lắm vì tôi không làm vì tiền”. Ðạo Phật là đạo đối trị với vô minh tức là đối trị với kẻ ngu si, dại khờ. Kẻ ngu tham danh nhiều chừng nào càng gặp nhiều nguy hiểm chừng nấy.

(Pháp Cú 72)
Chút tài mọn, chút hư danh
Dù thêm vào được cho mình nay mai
Người ngu vẫn tự hại đời
Tự đưa mình tới cuối trời diệt vong
Để rồi hạnh phúc chẳng còn
Tiêu tan đầu não, héo hon trí người.

     Trong xã hội chỉ có người xấu chứ không có nghề xấu. Ai hành nghề y khoa mà chỉ lo kiếm bạc tiền, thiếu hẳn lòng “Từ Bi”, không thương yêu và sống vì người khác thời thật đáng trách. Đáng trách vì thiếu lòng lành giúp ích và đem vui cho tất cả mọi người, thiếu vắng lòng thương xót cứu khổ, dứt trừ đau khổ cho hết thảy chúng sinh. Đáng trách vì tâm không rung động trước sự đau khổ của kẻ khác. Chỉ mãi đến khi chính bản thân mình cũng lâm bạo bệnh mới ngộ ra điều đó thời quả là đáng tiếc!

Đôi khi người ta coi thường và chà đạp lên sinh mạng dù là của những sinh vật bé nhỏ như một con ốc sên. “Sát sinh” là điều bị cấm đoán ngay trong “ngũ giới” của dạo Phật.

Và điều đáng tiếc cuối cùng là ít ai khi còn đang sống, nhất là lại đang sống ở tột điểm của danh vọng, tiền bạc, mà lại nghĩ đến sự “vô thường” của tấm thân mình. Vô thường nghĩa là không mãi mãi ở yên trong một trạng thái cố định, luôn luôn thay hình đổi dạng, biến đổi liên tục. Thoạt tiên là hình thành, rồi tồn tại, sau đó đến biến đi và cuối cùng là tan rã. Đạo Phật gọi những giai đoạn đó là: “thành, trụ, hoại, không” hay “sinh, trụ, dị, diệt”. Tất cả sự vật trong vũ trụ từ nhỏ li ti như con vi trùng, như hạt cát, đến vật rất lớn như trái núi, trái đất, như trăng sao đều phải tuân theo bốn giai đoạn đó cả. Gắn liền với Thân là Tâm. Thân đã vô thường, Tâm cũng vô thường. Luật vô thường ở khắp mọi nơi, chẳng những Thân và Tâm là vô thường, mà cả Vạn Vật hay Hoàn Cảnh cũng vô thường nữa.

     Sau khi được sinh ra, con người làm sao tránh khỏi già nua đi, tránh khỏi mắc bệnh tật, tránh khỏi cái chết đang chờ đợi ở cuối đường đời. Đó là bốn giai đoạn “sinh, lão, bệnh, tử”.

(Pháp Cú 148)
Thân này suy yếu, già nua
Dễ dàng hư nát tựa như khu rừng
Tập trung bệnh tật chập chùng
Thời gian hủy hoại, cuối cùng tan đi
Có sinh có tử lạ gì.

     Tuy nói vậy nhưng nên nhận biết rằng đạo Phật không phải là một đạo yếm thế, chán đời. Tấm thân sinh tử của con người không phải lúc nào cũng hoàn toàn vô dụng. Đối với người có trí thời trong khi sống nơi cuộc đời ô hợp này tấm thân đó cũng có thể tạo ra được biết bao nhiêu việc tốt lành, việc thiện, để giúp ích cho người khác. Đó là một cái nhìn của Đức Phật đến tiềm lực hướng thượng của con người. Khi còn sống chúng ta hãy sống xứng đáng cho cuộc đời!

Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(3-2013)

GỬI Ý KIẾN
Tên của bạn
Email của bạn
Đánh giá (tùy ý)
Nhập những ký tự ở hình bên vào ô bên dưới.

Tin / Trang  50 100 150 200 250  
Sắp theo  Tiêu đề Ngày Số lần xem Đánh giá   Tăng dần Giảm dần  
Đang xem 1 – 50 của 133 bài 1 2 3 »  

● BẤT MÃN NHƯNG PHẢI TÙY DUYÊN (01/12/2013) (Xem: 5122)

● BỆNH TẬT LÀ MÓN QÙA Chân Pháp Đăng (12/07/2012) (Xem: 3762)

● BIẾT ĐÂU LÀ KHỞI ĐIỂM CUỘC RONG CHƠI (01/14/2012) (Xem: 9501)

● BỨC ẢNH GÂY PHẪN NỘ TỘT CÙNG (02/05/2013) (Xem: 2338)

● CÁ CÓ BIẾT ĐAU KHÔNG? Tâm Linh (06/25/2012) (Xem: 14550)

● CÁ CÓ BIẾT ĐAU KHÔNG? Tâm Linh biên dịch (10/20/2012) (Xem: 9898)

● CẢNH CÙNG KHỐN Thích Tâm Hạnh (08/12/2012) (Xem: 36952)

● CHUC MUNG NAM MOI (02/05/2013) (Xem: 1025)

● CHUYỆN CẢM ĐỘNG GIỮA HAI CHÚ THẠCH SÙNG (06/25/2010) (Xem: 11978)

● CHUYỆN NỒI CƠM CỦA KHỔNG TỬ (10/01/2010) (Xem: 20149)

● Có một “tâm chay” – Bùi Kim Sơn (02/04/2012) (Xem: 17295)

● CÚNG SAO GIẢI HẠN – Hoàng Liên Tâm (02/10/2011) (Xem: 58986)

● CUỘC CHIẾN THẦM LẶNG – Vĩnh Hảo (01/05/2011) (Xem: 15786)

● CUỘC ĐỜI BÁC SỸ RICHARD TEO (03/17/2013) (Xem: 697)

● ĐI TỚI MỘT BÌNH AN DƯỚI THẾ – Tâm Huy (12/12/2010) (Xem: 13771)

● ĐỪNG CHẾT VỘI TRƯỚC KHI ĐỌC TIN NÀY (04/24/2011) (Xem: 16407)

● ĐỨNG TRÊN TẤT CẢ – Vĩnh Hảo (01/05/2010) (Xem: 15667)

● HẠNH PHÚC TUỔI GIÀ Thích Nhật Từ (08/19/2012) (Xem: 11870)

● HÃY CHỮA TRỊ CĂN BỆNH VÔ CẢM – Lam Yên (11/17/2011) (Xem: 11939)

Tin / Trang  50 100 150 200 250  
Sắp theo  Tiêu đề Ngày Số lần xem Đánh giá   Tăng dần Giảm dần  

 

Categories: Tài-liệu Tu-Học | Leave a comment

CHẾT LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN

BIẾT SỐNG TRONG VÔ THƯỜNG 
Thích Đạt Ma Phổ Giác

CHẾT LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN

Trời hửng nắng, ta trở dậy, mệt nhoài, như mới hôm qua ta còn khoẻ, nói chuyện tới khuya, giờ đây mình đã ngã bệnh chỉ sau một đêm. Bởi thế, nói đến vô thường ai cũng thấy buồn chán và ngán ngẩm làm sao; chỉ trong chớp mắt, trong khoảnh khắc, mọi việc đều đã thay đổi một cách nhanh chóng, mới thấy đó rồi mất đó, cuộc sống quá mong manh, tạm bợ. Vì vậy, vô thường có thể là một bài hát buồn đối với nhiều người. Có một câu chuyện nói về sự vô thường như sau:

Thấy một chú tiểu đang tưới cây, một người khách hỏi, “đã biết cuộc đời là vô thường, sao chú còn chăm sóc thứ ấy làm gì cho tốn công, vô ích?”

Chú tiểu đáp, “dạ xin thưa, nếu mọi vật đều là thường, thì đâu cần chúng con chăm sóc để làm gì?”

Bởi vô thường nên mọi hiện tượng, sự vật trên cõi đời này đều thay đổi, biến thiên theo thời gian. Mới hồi sáng thấy tinh thần sảng khoái, dễ chịu, trẻ trung yêu đời, muốn làm gì cũng được; ấy thế mà buổi chiều, mình lại xìu như bánh bao chiều, mệt mỏi, chán chường, thất vọng, lo âu, sợ hãi. Chính vì vậy mà Phật dạy, “cuộc đời là mộng huyễn”; còn chúng ta thì cho rằng, cuộc đời này vốn là thường còn mãi mãi.

Vậy xin hỏi hết tất cả mọi người, thế gian này có phải là mộng huyễn hay không? –  Đời là một giấc mộng dài, là một đám sương mù, là một làn điện chớp, có đó rồi không đó, tích tắc rồi tan biến, nên Hoà thượng Trúc Lâm mới nói bài Mộng như sau:

Gá thân mộng, dạo cảnh mộng,
Mộng tan rồi, cười vỡ mộng.
Ghi lời mộng, nhắn khách mộng,
Biết được mộng, tỉnh cơn mộng.

    Đời người cũng vậy, và tất cả muôn loài vật cũng lại như thế. Vô thường là một lẽ thật chung cho tất cả thế gian, không phải của riêng ai, mọi người đều có quyền thấy biết, nhìn nhận như vậy, không phải của người này, mà cũng không phải của người kia. Bởi vô thường nên mọi sự vật có thể đổi thay, vì đổi thay nên ta mới khổ.

Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ. Cũng từ vô thường, nên thân này mới có sinh-già-bệnh-chết, rồi yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được khổ, và sự thịnh suy của thân này cũng khổ. Do đó, Phật dạy, “cái gì có tướng là hư hoại”. Ta gọi chung cho mọi sự thay đổi, hư hoại đó là vô thường. Đức Phật dạy trong Kinh Kim Cang:

                   Tất cả pháp hữu vi,
                   Như mộng huyễn bào ảnh,
                   Như sương, cũng như chớp,
                   Phải nên quán như thế.

    Như Lai Thế Tôn nhờ tu chứng dưới cội Bồ Đề nên Ngài thấy rõ ràng, từ con người cho đến muôn loài vật, như mặt trăng, mặt trời, trái đất, núi rừng, ao hồ, sông suối, hoa lá, cỏ cây…, đều phải theo một định luật chung muôn đời của vũ trụ, là phải thay đổi, không có cái gì đứng yên hay trường tồn mãi mãi trên thế gian này.

Ấy thế mà, vẫn có một số người quan niệm rằng, thế gian này thường còn mãi, nên mặc tình đắm say, lao vào vui chơi, hưởng thụ quá đáng, để rồi đánh mất đi nhân cách và phẩm chất làm người, nên ngày càng rơi vào hố sâu tội lỗi; hạng người này đáng thương hơn là đáng ghét. Chính vì vậy, hôm nay, chúng tôi xin chân thành chia sẻ pháp thoại “biết sống trong vô thường”.

    Vậy vô thường có nghĩa là gì?

Thưa tất cả quý Phật tử, “vô” có nghĩa là không, “thường” nghĩa là thường có. Vô thường có nghĩa là không thường còn, không bền chắc lâu dài, dù nhỏ bé như hạt bụi, hoặc lớn như mặt trời, mặt trăng, cũng đều phải chịu sự chi phối thay đổi, tan rã, chuyển biến theo thời gian, hoặc chậm hay mau mà thôi. Vô thường tạm chia thành ba loại: Thân vô thường, tâm vô thường, hoàn cảnh vô thường.

Trước tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thân vô thường xem nó như thế nào và chuyển biến ra sao.

Thân này từ đâu có? Theo lời Phật dạy, thân này muốn có được phải hội đủ ba điều kiện: phải có cha mẹ quan hệ với nhau, cùng kết hợp tinh cha với huyết mẹ và nghiệp thức của một chúng sinh, chung hợp lại thành bào thai, bào thai lớn lên nhờ sự nuôi dưỡng bằng máu huyết và hơi ấm của người mẹ, đến khi mở mắt chào đời, hít thở khí trời, bú sữa mẹ hay sữa hộp, rồi dần dần biết uống ăn và lớn khôn. Thân thể này sống được là nhờ bốn đại giữ gìn, cộng với uống ăn và hít thở khí trời mà sống còn.

Thân này sống được nhờ bốn đại bên trong kết hợp với bốn đại bên ngoài được đưa vào hằng ngày, như chất cứng gọi là đất, chất lỏng là nước, nhiệt độ trong người gọi là lửa, và sự hoạt động của thân là nhờ gió. Vì thế, sự hình thành của thân này là một chuỗi dài vay mượn liên tục. Nếu chúng ta thở ra mà không hít vào coi như chết. Vậy mà có người cho rằng, thân này thường còn mãi mãi; nhưng thực tế có phải vậy không? Chúng ta thử nhìn lại xem, trên đời này có ai trẻ mãi không già, khoẻ mạnh hoài không đau bệnh, sống hoài mà không chết. Chắc chắn là không! Tại sao vậy? Vì ai cũng phải chịu quy luật của sự vận hành già-bệnh-chết chi phối. Chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn phải xả bỏ báo thân này khi Ngài 80 tuổi, huống hồ là chúng ta.

Quy luật vô thường già-bệnh-chết không hẹn cùng ai, giống như đoá hoa phù dung sớm nở, tối tàn. Phật dạy, muôn loài vật ở thế gian này đều vô thường để mỗi người chúng ta biết mà không quá chấp chặt, dính mắc vào xác thân này để làm khổ đau cho mình và người.

Đã chịu sự chi phối của vô thường thì thân này đâu có thật, do chúng ta lầm chấp thân này là ta, là tôi, là của tôi, từ đó sinh ra tham lam, ích kỷ, tìm cách vơ vét về cho riêng mình mà làm tổn hại người khác.

     Đã làm người, ai có mặt trên cuộc đời này, không ít thì nhiều luôn bị bất hạnh, khổ đau bám víu vào thân phận con người. Cái mà tất cả mọi người đang lo sợ nhất chính là cái chết; vì thế, một số người cố tìm cách luyện thuật trường sanh bất tử để sống đời, nhưng có mấy ai được thoát chết bao giờ đâu?

Thuở Phật còn tại thế, có một thiếu nữ dáng vẻ mảnh khảnh, ốm yếu, nghèo khổ, sống tại thành Xá Vệ, tên là Kisa (có nghĩa là cô gái ốm yếu). Khi lớn lên, cô cũng có chồng như bao người con gái khác; nhưng bị mọi người bên chồng khinh khi, coi thường, vì cô thuộc giai cấp hạ liệt, thấp kém, ở đợ, làm mướn.

Từ khi đứa con trai đầu lòng ra đời, cuộc sống của cô bắt đầu thay đổi, cô được mọi người bên chồng đối xử tốt đẹp và quý mến hơn. Nhưng bất hạnh thay, chẳng được bao lâu, đứa con của cô qua đời vì cơn bạo bệnh. Đứa con chết làm người con gái ấy gần như điên loạn; dù đau khổ đến tột cùng, cô vẫn hy vọng sẽ có người cứu được đứa con của mình sống lại, nên ôm xác con đi tìm thầy cứu chữa.

Nhìn cảnh tượng thảm não, thất tha thất thểu lê từng bước chân để tìm thuốc cải tử hoàn sinh cho con mình, mọi người nhìn theo chỉ biết ngậm ngùi, thương tiếc; bởi việc cứu sống đứa trẻ là điều không thể được mà người con gái ấy vẫn nuôi hy vọng.

PHẬT CHỮA TÂM BỆNH

          Có người vì quá xót thương, nên đã hướng dẫn cô đến gặp Như Lai Thế Tôn, mong nhờ đức Phật tế độ. Khi đến, cô tha thiết cầu xin Như Lai Thế Tôn cứu sống cho con mình. Biết được nhân duyên sâu xa, đức Phật liền hứa sẽ giúp cô cứu sống đứa trẻ. Nghe vậy, lòng cô dâng trào lên niềm hy vọng vô biên, cô nghĩ con mình chắc chắn được cứu sống.

Chờ cho nhân duyên đã chín mùi, đức Phật liền chỉ dạy, “này thiếu nữ, con hãy đến nhà nào chưa từng có người chết xin về đây cho ta vài hạt cải, ta sẽ cứu sống đứa bé cho con. Tin chắc rằng con mình sẽ được cứu sống nếu có được vài hạt cải trong một gia đình không có người chết, cô liền phấn khởi ra đi, trong lòng mừng thầm vô hạn. “Hạt cải nhà nào cũng có”, cô nghĩ như thế, nên sung sướng đến tột cùng, lòng tràn đầy hy vọng, vì trong chốc lát đây, con cô sẽ được cứu sống nhờ những hạt cải nhiệm mầu ấy.

Hạt cải thì nhà nào cũng có, nhưng tìm nó trong một gia đình không có người chết thì quả thật là không thể được. Bởi vì sao? Vì nhà nào cũng có người chết. Cô thất tha, thất thểu đi hết làng trên xóm dưới, từ làng này qua xóm nọ, cô đi khắp hang cùng hốc hẻm, nhưng không tìm ra một gia đình nào không có người chết như yêu cầu của Như Lai Thế Tôn.

Quá thất vọng và mệt mỏi, cô ngã quỵ bên lề đường, trên tay vẫn còn ôm chặt xác con của mình. Thế là bao nhiêu hy vọng không còn nữa. Cô nhìn con với lòng trìu mến, dù xác đứa bé đã cứng đờ. Lúc này, cảm giác rùng rợn cùng với sự thương tâm phủ đầy trong lòng cô; bỗng nhiên, tâm trí cô loé lên một tia sáng, cô hiểu rằng, trên đời này, ai rồi cũng sẽ chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, đau thương mất mát là một sự thật của kiếp người, yêu thương mà phải xa lìa đó là một nỗi khổ, niềm đau, có hợp phải có tan, đó là định luật nhân duyên quả của cuộc đời.

Trong sự đau khổ tột cùng, cô đã nhận ra, có sinh là có chết, ai rồi cũng phải lần lượt như vậy, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi. Từ nhận thức sáng suốt đó, cô không tìm hạt cải nữa, mà đem xác con mình vào rừng Thi Lâm (theo phong tục, tập quán Ấn Độ, xác người chết đem bỏ vào rừng cho thú ăn), rồi thanh thản trở về bạch Phật, “Kính bạch Thế Tôn, con đã tìm ra hạt cải của sự vô thường rồi, con đã đưa xác đứa bé bỏ vào rừng. Bây giờ con cảm thấy trong lòng thoải mái và nhẹ nhõm hơn”.

Nhân đó, đức Phật khai thị đạo lý duyên sinh trong cuộc sống cho cô nghe, “trên đời này, có sinh là có tử, yêu thương xa lìa khổ, không có cái gì là cố định cả, tuỳ theo nhân duyên, tuỳ theo điều kiện mà nó đổi thay sớm hay muộn mà thôi”.

Ngang đây, cô chứng được quả Dự Lưu, tức đã vào dòng Thánh, từ nay về sau không còn đoạ vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Sau đó, cô phát tâm xin đức Phật cho xuất gia làm Tỳ kheo ni; nhờ luôn siêng năng, tinh tấn tu hành, cuối cùng cô đã chứng quả A-La-Hán.

Khổ đau luôn bám víu thân phận con người, khổ đau về vật chất như thiếu cơm ăn, áo mặc, rồi đến cái khổ vì già-bệnh-chết, nên ngày xưa người ta hay cố gắng luyện thuật trường sinh bất tử để sống đời, nhưng có ai không chết bao giờ đâu?

Như ông Bành Tổ sống đời,

Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu.

     Ngày xưa, người ta đồn rằng, ông Bành Tổ bên Trung Hoa do luyện được trường sinh bất tử, nên mạng sống được kéo dài đến 800 tuổi. Đó là truyền thuyết của thời xa xưa, nhưng trên thực tế thì hiếm thấy và ít có.

Trong nhà Phật không quan trọng sống lâu hay chết yểu, nếu sống 100 năm mà không làm gì được lợi ích cho ai, thì sống như vậy cũng không có giá trị gì về kiếp nhân sinh. Một ngày chúng ta có mặt trong cuộc đời là một ngày ta biết buông xả tham lam, sân hận, si mê, và sẵn sàng bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia khi có nhân duyên; thấy người khó khăn, thiếu thốn ta sẻ chia hay nâng đỡ, thấy người bệnh ta chăm sóc, hỏi han, động viên, an ủi… Khổ đau được chia ra làm hai phần:Khổ về thân, khổ về tinh thần.

Thân thì phải sinh-già-bệnh-chết nên khổ. Tâm thì yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được khổ. Chúng ta không thể diễn tả hết được nỗi khổ, niềm đau của kiếp người. Có thân là có khổ, không ít thì nhiều, ai cũng đều phải như vậy. Thế mà chúng ta ít có ai nghĩ đến điều này.

Khi mới sinh ra thì ta khóc, mọi người cười. Cái khổ trước tiên là người mẹ phải mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, đến ngày sinh nở trông cho mẹ tròn con vuông, đó cũng là một nỗi khổ, niềm đau.

Già thì da nhăn, mắt mờ, tai điếc, đi đứng khó khăn, đa số sống phải nhờ vào sự chăm sóc của con cháu; nếu thiếu tu thì phiền não, trách móc con cháu, nên nói già hay sanh tật là vậy đó.

Bệnh thì mình mẩy đau nhức ê ẩm, chân tay rã rời, nếu nhẹ thì còn tự chăm sóc được, nặng thì phải nhờ đến cháu con ,tốn tiền, hao của, mất công cho gia đình, người thân.

Chết là một nỗi ám ảnh lớn nhất của kiếp con người, ai cũng ham sống sợ chết; khi sống thì không làm những điều thiện lành, tốt đẹp, đến khi gần chết thì lo lắng, sợ hãi, không biết mình sẽ đi về đâu?

Rồi cho đến yêu thương mà xa lìa khổ. Nhờ sự giáo hoá tài tình của Như Lai Thế Tôn, người con gái ấy đã nhận ra chân lý cuộc đời, cô quyết lòng từ bỏ hết tất cả để trở về, quay trở lại với chính mình. Đây chính là pháp Thiền Hạt Cải mà xưa kia Như Lai Thế Tôn đã trao cho người con gái ấy.

Ngay tại đây và bây giờ, thân vật lý này vẫn còn hiện hữu nơi mọi người chúng ta. Học đạo lý năm xưa để ta tự chiêm nghiệm lại chính mình. Mất mát, đau thương, buồn tủi là một sự thật, hễ có được là có mất, sự ra đi của người thân luôn để lại cho ta nỗi nhớ, niềm thương, và cuộc đời vốn dĩ là như thế.

Cuối cùng, mỗi người chúng ta ai cũng phải đối diện với cái chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi. Chết là một nỗi ám ảnh lớn lao nhất đối với con người, nên nhiều người không dám nói đến từ này, họ nói thay từ chết bằng từ thọ, thậm chí khi đã tắt thở, mua hòm về nhà rồi vẫn còn gọi là cái hòm thọ ( tức cái hòm sống).

PHÁP THIỀN HẠT CẢI

Thế Tôn là bậc đại y vương, là vua của các thầy thuốc, nGài tuỳ theo bệnh mà cho thuốc, phương thuốc của Ngài rất nhiệm màu, đơn giản và hết sức thực tế. Nỗi khổ, niềm đau về sự yêu thương xa lìa khổ, mất mát, đau thương, buồn tủi, khiến cho thân tâm chúng ta mê muội, bằng mọi giá ta quyết giành lại sự sống, nhưng sự sanh ly, tử biệt là lẽ đương nhiên; hạt cải vốn là như vậy chứ không có tác dụng gì để đổi chết thành sống. Nhờ đi tìm hạt cải đã giúp cho người con gái nhận ra đạo lý vô thường của sự sống, cái chết có thể đến với tất cả mọi người bất cứ lúc nào, và không loại trừ một ai.

Sống trên cõi đời này, ai sáng suốt nhận ra được điều ấy gọi là giác ngộ, là thấy rõ sự thật của kiếp người. Sự mất mát, đau thương là lẽ đương nhiên, không có gì làm cho ta phải quá buồn khổ và đau lòng.

Con đường đi tìm hạt cải của người con gái ấy là một quá trình thiền quán về sự vô thường, bởi vô thường nên từ con người cho đến vạn vật đều biến thiên, thay đổi theo thời gian, không có gì là cố định cả. Chính nhờ nguyên lý vô thường, con người mới thay đổi và tiến bộ được; vì sự sống muôn màu, muôn vẻ, con người cần có ý chí mãnh liệt mới có thể vượt qua được cạm bẫy cuộc đời.

Do bị vô minh, mê muội che lấp, chúng ta chưa nhận chân được vô thường là gì, từ đó tham ái phát sinh, và khổ đau bắt đầu có mặt. Khi ta biết rõ thế gian này là vô thường, mình sẽ có cái nhìn sáng suốt và chín chắn hơn, mình không bi quan yếm thế, không chán nản, không thất vọng, để làm mình và người khổ đau. Chúng ta phải tự tin hơn nữa để làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời bằng sự ý thức làm lành, lánh dữ.

Nhờ thấu suốt được nguyên lý vô thường của vạn vật, chúng ta sẽ an nhiên, bất động trước mọi hoàn cảnh với vô vàn sự đổi thay. Mỗi người Phật tử chúng ta bắt chước làm theo sự chỉ dạy của đức Phật cho người con gái ấy, đi tìm hạt cải để trị tâm bệnh cho chính mình.

Chúng ta vẫn biết, hạt cải là vật vô tri không thể cải tử hoàn sinh, nhưng Như Lai Thế Tôn đã chỉ dạy cho người con gái ấy một pháp Thiền Hạt Cải, để rồi cuối cùng nàng nhận ra nguyên lý vô thường của kiếp người. Ngày nay, người Phật tử chân chính có cơ hội học tập và hành trì pháp Thiền Hạt Cải ấy. Tuy hạt cải không có giá trị cứu sống đứa bé, nhưng nó đã tác động đến tâm tư của người mẹ, giúp nàng nhận ra phép lạ của sự tỉnh thức về nỗi mất mát đau lòng đang diễn ra trong từng phút giây. Người con gái ấy đã thấy rõ, hạt cải chỉ là hạt cải, đứa bé chỉ là đứa bé, có duyên thì được sinh ra làm con, hết duyên thì trả về nguyên thuỷ của nó. Chết là một sự thật hiển nhiên không ai có thể chối cãi được.

Sự đến đi của một con người là do nghiệp lực thúc đẩy và chi phối, khi ta làm điều tốt lành thì được hưởng quả an vui, hạnh phúc, làm điều xấu ác thì phải chịu sa đoạ, khổ đau. Nó đến và đi là tuỳ theo duyên ngắn hay dài, chậm hay mau mà thôi. Do người con gái ấy lầm chấp mình là ta, rồi dẫn đến bám víu vào sở hữu của ta, là con ta, tài sản của ta, nên nàng mới phải khổ đau đến cùng tột như vậy.

Khổ đau lúc nào cũng có mặt, chỉ vì chúng ta là người phàm mắt thịt, nên không nhìn thấy hết nguyên nhân sâu xa của nó mà thôi. Do tham ái, luyến tiếc, bám víu, cho rằng cái gì cũng là thật có, từ đó chúng ta sinh tâm chấp giữ, bảo thủ, bám víu vào đó, khi được thì càng thêm tham, tham không được thì đau lòng, khốn khổ mà sinh ra hận thù, oán giận.

Mất mát, xa lìa là lẽ đương nhiên trong cuộc đời, vậy mà có người dám nói rằng, thà chịu khổ chớ không chịu lỗ. Sống một mình, vui vẻ, hạnh phúc không chịu, phải đi tìm người bạn đời để tâm sự, sẻ chia, cuối cùng đường ai nấy đi, dù có thương yêu cách mấy cũng không thể giúp được nhau trong giờ lúc sanh ly, tử biệt.

Bởi do chấp trước và bám víu vào thân này, nên chúng ta luôn sống trong đau khổ lầm mê, để rồi oán trời, trách đất sao quá bất công đối với con người. Người đời thì luôn tham muốn vô cùng tận, tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sanh ra buồn khổ, hận thù, tìm cách trả đũa. Trên thế gian, cái gì có được rồi cũng sẽ mất, không có cái gì bền chắc, lâu dài mãi mãi, thương yêu mà xa lìa là một nỗi khổ, niềm đau của kiếp con người.

KHỔ DO CHẤP CHẶT

Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ; bị đoạ làm súc sanh, quỷ đói, chưa chắc là khổ, mà cái khổ lớn nhất của con người là vô minh, mê muội, không biết lối đi mới thật là khổ.

Những cái khổ thiếu ăn, thiếu mặc, đói rét, hay con trâu, con bò kéo cày, hoặc làm quỷ đói, cho đến khi trả hết nghiệp khổ thì cũng có ngày thoát ra khỏi; còn chúng ta sống trong vô minh mê lầm mà không biết lối đi, không biết được sự thật của cuộc đời mới là khổ.

Đã làm người, ai không một lần vấp ngã, nhưng khi vấp ngã chúng ta có chịu đứng lên hay không? Chúng ta vấp ngã ngay nơi đất, thì cũng từ nơi đất mà đứng lên. Đạo Phật không bắt buộc một ai phải đi theo mà chỉ hướng dẫn cho tất cả mọi người thấy biết đúng sự thật, tốt biết tốt, xấu biết xấu, còn làm được hay không là do sự quyết tâm của mỗi người. Chúng ta có quyền chọn lựa vì chính mình là thượng đế tối cao của chính mình, không ai có quyền chen vô hay ban phước, giáng họa cho ta. Đến chỗ này, chúng ta phải thầm nhận, tự nhận, không nên chần chừ nữa, mà hãy một phen chuyển mình để nhận ra tính biết sáng suốt ngay nơi thân này.

Phật dạy, ai cũng có chân tâm sáng suốt, tại sao chúng ta không chịu thừa nhận để rồi mình cứ mải mê chạy theo vui chơi, hưởng thụ dục tính, làm chính mình khổ luỵ ngày càng thêm chồng chất?

Vua Trần Thái Tông là một vị vua cư sĩ. Khi tu hành ngộ đạo, Ngài cảm thông cho kiếp người sao quá ngu si, khờ dại, nên sáng tác ra bài thơ như sau:

Lang thang làm kiếp phong trần mãi mãi,

Ngày cách quê hương muôn dặm đường.

    Phật dạy, “ai cũng có tâm Phật, tâm sáng suốt, chỉ vì ta không chịu thừa nhận, nên phải chịu trôi lăn mãi trong lục đạo, luân hồi”. Ta là nam nhi đại trượng phu, Phật đã thoát ly sanh tử, còn ta dại gì mà đi lang thang mãi cho đến khi gối mỏi, chân dùn mà ngồi đó than thân, trách phận, chờ đến khi khát nước mới đào giếng thì làm sao hết khát được đây?

Vậy thành Phật là thành cái gì? Chúng ta phải nhận rõ chỗ này, thành Phật là thành cái tâm sáng suốt, thanh tịnh, chớ không phải thành cái thân năm,bảy chục ký lô này. Cái tâm sáng suốt, thanh tịnh ấy ngay nơi mắt thì thấy biết rõ ràng, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

Có một ông vua hỏi Thiền sư, “thành Phật là thành cái gì?”

Thiền sư đáp, “dám bảo bệ hạ đã quên”.

Chỉ một câu nói “dám bảo bệ hạ đã quên” đã làm nhà vua sáng tỏ, hài lòng. Do không nhận cái mình thực có, nên chúng ta đành cam chịu sống trong đau khổ, lầm mê.

Đạo Phật ra đời đã mở ra trang sử mới, một trang sử huy hoàng nhất trong lịch sử nhân loại, chưa từng có từ trước tới nay. Đạo phật đã chỉ cho chúng ta biết cách làm chủ bản thân, nhờ biết quay lại chính mình; mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, không ai có quyền ban phước giáng họa cho ta; nên đạo Phật là đạo của tình thương, là đạo của tỉnh thức, là đạo của sự giác ngộ, giải thoát, là đạo của con người, vì con người, vì lợi ích của nhau, bằng trái tim hiểu biết trên tình thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.

Phật là danh từ chung, không dành cho riêng ai như các quan niệm khác của thời xa xưa. Ai cũng có thể thành Phật được, nếu quyết tâm chịu bắt chước buông xả và tu tập như Ngài, thì chúng ta cũng sẽ thành Phật trong tương lai.

Sở dĩ, chúng ta không thành Phật và phải chịu khổ đau trong luân hồi sinh tử là vì mình không thừa nhận nhận mình có tính biết sáng suốt. Chỉ vì mình chẳng chịu thừa nhận chính mình có hạt châu vô giá ngay nơi thân này, mắt thấy sắc nhưng rõ ràng thường biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế, tại ta không chịu lấy ra xài mà thôi.

Điều đầu tiên đức Phật đã chỉ là biết khổ do chấp trước sai lầm, chấp là gốc của sự khổ đau; biết được khổ từ nguyên nhân chấp trước, bám víu, tham ái, nên chúng ta phải tìm cách chuyển hoá, buông xả cái khổ lớn nhất của con người là sợ chết, vì tham sống nên sợ chết.

Chúng ta luôn tham muốn thân này luôn sống đời mãi mãi, nên mọi người coi cái chết là việc cấm kỵ nhất. Do đó, khi gặp người thân thăm hỏi nhau, chúc mừng nhau, chúng ta đều luôn cầu chúc cho nhau mạnh khoẻ, sống lâu, mà ta không biết phải gieo nhân nào để được sống thọ. Nhân sống thọ là không sát sinh, hại vật, bởi mạng sống từ con người cho đến muôn loài vật, ai cũng đều ham sống sợ chết, ta muốn sống thọ mà cứ giết hại hoài, thật “thất nhơn ác đức” làm sao! Vì sợ chết nên ai cũng tìm cách tránh né danh từ chết, và hình như từ chết đã ám ảnh con người thành nỗi sợ hãi lớn, thậm chí đến khi tuổi già, bệnh gần chết, khi mua hòm về vẫn nói là hòm thọ “tức là hòm sống.”

Cho nên, đã làm người trong trời đất thì trước sau gì ai cũng phải chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, dù là vua chúa hay người dân dã, bình thường. Do đó, với sanh thì mau lớn trong từng giây, phút như một em bé khi mở mắt chào đời, chỉ bằng cùm tay, ấy thế mà sẽ lớn lên với nhiều thay đổi; sanh cũng có nghĩa là sự sống đang tăng trưởng, thay đổi và phát triển.

Còn đối với già thì sao? Da nhăn, tóc bạc, mắt mờ, tai điếc, ăn uống, đi đứng khó khăn theo từng năm tháng, ai rồi cũng sẽ phải già.

Với bệnh thì thân thể tiều tụy, đau nhức hoành hành, làm ta đau khổ; sức khỏe dần hồi hao mòn, suy kém, làm cho ta tốn tiền, hao của.

Khi chết thì con người không còn cựa quậy, hoạt động như bình thường, mà nhắm mắt xuôi tay, co cứng, rồi rã rời, thối rửa.

Vì lẽ ấy, đức Phật mới nói với vua Ba Tư Nặc rằng, có bốn sự việc mà người thế gian không thoát khỏi được, đó là sinh-già-bệnh-chết.

Chứng minh cho lời Phật dạy là chân lý, đúng với lẽ thật thế gian là vô thường, chúng ta thường đau khổ khi có người thân qua đời, nhất là người đó đã từng nuôi nấng, thương yêu, chăm sóc, lo lắng cho ta được đầy đủ về mọi phương diện. Ngày nay, nếu chúng ta chịu khó theo dõi tin tức trên các phương tiện báo chí, chúng ta sẽ thấy, không biết bao nhiêu là cảnh sinh ly tử biệt luôn xảy ra hằng ngày, chết chóc do chiến tranh, loạn lạc, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, sóng thần, động đất, tai nạn, già bệnh v.v…

Nào là khi mới sanh ra, chưa kêu tiếng khóc chào đời, hoặc mới chập chững biết đi đã xa lìa cha mẹ, mới ngày nào mẹ mẹ, con con, mà giờ đây không còn nữa; rồi tai nạn giao thông chết tức tưởi, làm con người trong phút chốc đã trở thành người thiên cổ. Những nỗi đau thương, mất mát luôn rình rập chúng ta trong từng giây, từng phút trên thế gian này. Hiện nay, tai nạn giao thông đã làm cho biết bao người đang khoẻ mạnh bị chết tức tửi, rồi bệnh tật tấn công, kẻ chết non, người chết bất đắc kỳ tử, cái chết không tha thứ bất kỳ một ai, không phải chúng ta sinh ra chờ đến già, bệnh mới chết.

Mọi người nên nhớ rằng, cái chết đến với chúng ta rất bất ngờ, không báo trước, không chờ đợi, không hẹn hò, không phải ai cũng đến già, bệnh rồi mới chết. Cái chết đến với chúng ta thiên hình vạn trạng không sao kể hết, người chết trẻ, kẻ chết già, người chết sông, kẻ chết suối, kẻ chết bụi, người chết bờ… người chết vì súng đạn, gươm đao, kẻ chết vì thiên tai, lũ lụt, người chết vì thiếu thốn, đói khát, lại có người vì uất hận, vì bức xúc mà quyên sinh, bức tử. Tóm lại, cái chết không ai có thể thoát khỏi và trốn được. Trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy như sau:

                  Dầu trốn giữa hư không,
                   Ở biển khơi, núi rừng,
                   Không một nơi nào cả,
                   Trốn thoát được cái chết.

    Thời đức Phật còn tại thế, có bốn vị ngoại đạo tu chứng được ngũ thông:

_ Thứ nhất là thiên nhãn thông, thấy được tất cả người và vật, dù có vật cản hay vật không cản, đều thấy rõ ràng, thông suốt.

_ Thứ hai là thiên nhĩ thông, nghe được tất cả âm thanh lớn, nhỏ dù gần, hay xa.

_ Thứ ba là tha tâm thông, biết được tâm ý người đó đang suy nghĩ gì và muốn làm gì.

_ Thứ tư là thần túc thông, biến hoá lớn nhỏ tuỳ ý, thăng thiên độn thổ, lên trời, xuống đất, tuỳ ý biến hoá vô ngại.

_ Thứ năm là túc mạng thông, nhớ được vô số kiếp về trước đang làm gì, ở đâu, và cuộc sống ra sao đều nhớ rõ giống như người nhớ chuyện ngày hôm qua vậy.

Bốn vị ngoại đạo này đều biết trước còn bảy ngày nữa là con quỷ vô thường đến đòi mạng, nên hợp lại cùng nhau bàn cách trốn tránh và đến trình với vua Ba Tư Nặc, qua bảy ngày sau sẽ trở lại thăm vua.

Vị thứ nhất dùng thần thông bay lên núp trên đám mây xanh, người thứ hai dùng thần thông chui sâu vào lòng núi, vị thứ ba dùng thần thông chui xuống biển sâu, vị thứ tư dùng thần thông chui vào lòng đất. Thế là bốn vị yên trí rằng, mình sẽ trốn được con quỷ vô thường và tin chắc là như vậy; nhưng đến giờ thần chết đến, vị trốn vào hư không từ mây rớt xuống nát thây, vị thứ hai bị đá đè bẹp dúm, vị thứ ba bị chết ngộp dưới nước, khi nổi lên bị sóng xô vào bờ, vị thứ tư ở trong lòng đất, bị đất sụp chôn vùi thân xác.

Đây là quy luật tất yếu từ ngàn xưa cho đến nay, dù có tu luyện đến mức độ nào như bốn vị ngoại đạo ấy, tuy chứng được ngũ thông, nhưng cũng không thể nào trốn tránh được cái chết. Do đó, sự ra đời của đạo Phật đã giúp ích cho nhân loại thấu suốt được nguyên lý vô thường, để mỗi người chúng ta tự tỉnh thức, đừng lầm chấp cái gì cũng là thường còn mãi mãi, để rồi gây thù, chuốt oán cho nhau, mà làm khổ đau cho nhân loại.

Từ quan niệm sai lầm đó, một số người cứ mãi đam mê, say đắm trong lạc thú trần gian, cố chấp bảo rằng, cuộc sống này là trường tồn mãi mãi, cho nên mặc tình gây tạo nhiều tội lỗi, đến khi phước hết, họa đến, ngồi đó mà than phân, trách phận, đổ thừa tại-bị-thì-là. Cũng nhờ vô thường đổi thay, nên chúng ta mới tu được; xưa là đồng hoang cỏ cháy, nay là mái chùa thân yêu thắm đượm tình người.

Nhờ vô thường mà mọi sự vật mới phát triển và đổi thay, nhờ vô thường mà chúng ta mới tu được; nếu mọi thứ đều cố định như quan niệm của thời xa xưa: trời chết sanh trời, người chết sanh người, thú vật chết sanh thú vật,  thì chúng ta tu hành đâu có lợi ích gì?

Tâm tham-sân-si của con người cũng vô thường,  nên chúng ta mới có thể thay đổi được; mình có thể chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ; không có một cái gì trên đời này mà cố định cả, tất cả mọi hiện tượng, sự vật là một dòng chuyển biến liên tục, thay đổi đến không thể ngờ.

Một Thiền sư Việt Nam sau khi ngộ đạo đã nói về thân này như sau:

                   Thân như bóng chớp có rồi không,
                   Cây cỏ xuân tươi thu héo tàn,
                   Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi,
                   Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương đông.

     Đời người dài lắm cũng đến trăm năm là cùng, như một giấc mộng dài, mới hôm nào ta còn bé nhỏ vui đùa, chạy nhảy hồn nhiên, nay đầu tóc đã bạc phơ, lưng còng, gối mỏi, chân dùn. Đời sống con người là như thế, mới qua thời tuổi trẻ mà giờ đây đã thấy già nua.

Còn vạn vật thì sao? Bốn mùa thay đổi, Xuân, Hạ, Thu, Đông, mới thấy cành hoa đẹp, giờ đã tàn. Thật đúng với câu “phù dung sớm nở tối tàn”. Cuộc đời là như vậy, luôn biến chuyển đổi thay, biết được như thế, chúng ta sẽ không còn bất an, sợ hãi trước bao nỗi thăng trầm của kiếp nhân sinh.

Có thịnh ắt có suy, có sinh ắt có tử, sống chết là lẽ đương nhiên, có gì phải lo, phải sợ, bởi thấy được như vậy, nên các vị Thiền sư luôn tự tại trước nỗi sống chết vô thường, “sanh như đắp chăn bông, tử như cởi áo hạ.” Sống chết là lẽ đương nhiên, là sự thường tình của thế gian, điều quan trọng là khi sống, ta làm được việc gì đó thật sự có lợi ích thiết thực cho nhân loại hay không.

Đây là điều thiết yếu quan trọng mà người con Phật cần suy nghĩ cho thấu đáo về cuộc sống của mình, ta luôn phải thăng hoa trên bước đường tu tập, mang lại niềm an vui, hạnh phúc cho mình và người. Sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về sự vô thường của tâm.

TÂM VÔ THƯỜNG

Trước khi đi sâu vào tâm vô thường, chúng ta cũng cần tìm hiểu, xác thân này do đâu mà có? Phải chăng do ta điên đảo vọng tưởng mà có thân này? Đức Phật đã chỉ rõ, con người do vô minh vọng động, bám víu trần cảnh, tham đắm sắc dục, chạy theo gió nghiệp thức, chấp chặt vào đó, tạo ra ý thức hệ, nên nỗi khổ, niềm đau bắt đầu có mặt.

Chính vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về tâm vô thường. Nói về tâm thì ai cũng cho rằng, cái hay suy tư, nghĩ tưởng là tâm mình, nhưng nhìn kỹ lại thì tâm suy nghĩ đó khi có, khi không. Bình thường thì tâm hay suy tư, nghĩ tưởng lăng xăng đó lúc nào cũng quấy rầy chúng ta, nhưng khi nhìn lại, tìm kiếm chúng thì không thấy đâu. Bởi tâm luôn thay đổi và biến dạng, khi thì buồn thương, giận ghét, buổi sáng nghĩ chuyện này, buổi chiều nghĩ chuyện kia, lúc nhớ về quá khứ, khi nghĩ đến tương lai, còn hiện tại thì bồn chồn, lo lắng, tính toán đủ thứ, cho nên không được yên.

Vì thế, đức Phật gọi “tâm viên ý mã” là vậy, nó giống như con khỉ chuyển cành, hay con ngựa chạy rong. Như hai vợ chồng nọ sống với nhau rất hạnh phúc, được ba mặt con, hai vợ chồng gây cãi nhau suốt ngày không thể nào khuyên can; mặc dù đã được ban tư vấn hôn nhân hạnh phúc gia đình nhiều lần hoà giải, nhưng hai vợ chồng vẫn nhất quyết ly hôn.

Trước lúc xa nhau, người vợ hỏi ba đứa con, “nay ba mẹ không thể sống cùng nhau được, các con bây giờ muốn theo mẹ hay cha?”

Đứa con thứ nhất nói “con theo mẹ”. Đứa con thứ hai cũng nói “theo mẹ”, đến thằng cu Tí nhỏ nhất chẳng chờ mẹ hỏi, nó nói “con theo mẹ à”. Nghe đến đây, người chồng liền nói, “ba đứa tụi nó theo bà thì tôi cũng theo em luôn”.

Bởi tâm con người luôn thay đổi, khi thì suy nghĩ chuyện này, lúc lại suy nghĩ chuyện kia, không bao giờ ngừng nghỉ. Như hai vợ chồng nọ, ai cũng muốn mình có quyền quyết định mọi thứ trong nhà, chẳng ai nhường nhịn ai. Làm chồng thì có nghiệp của người nam, làm vợ thì có nghiệp của người nữ, không ai giống ai, vì nghiệp của người nam và nữ khác nhau, ta không thể buộc mọi người theo ý riêng của mình.

Vì vậy, vợ chồng cần phải biết thông cảm và tha thứ lẫn nhau, ai cũng có tốt, có xấu lẫn lộn, ta chỉ một bề tận dụng cái tốt cho nhau. Nhìn chung, từ cuộc sống cá nhân, gia đình, cho đến quan hệ xã hội, không thể có khuôn mẫu giống nhau được. Người nam thì lúc nào cũng cứng rắn, mạnh mẽ, còn người nữ thì yếu mềm, dịu dàng;  do đó, nam và nữ gặp nhau rất khó mà hòa hợp với nhau được.

Khi hình thành một gia đình, một bên cương, một bên nhu và bất đồng như vậy, nên muốn hoà hợp, tạo hạnh phúc, không phải là chuyện dễ dàng. Theo lời Phật dạy, cả hai vợ chồng cần phải biết thông cảm, tha thứ cho nhau, chồng nói vợ nghe, vợ khuyên chồng biết hối cải thì mới được, chứ vợ chồng không chịu nhường nhịn lẫn nhau, cứ ngấm ngầm bất đồng quan điểm, cho đến khi “tức nước vỡ bờ”, dẫn đến ly thân, ly dị là điều không tránh khỏi.

Như vậy, con người sống trong thế gian không thể có hạnh phúc tuyệt đối. Vậy mà ai cũng đòi được an vui, hạnh phúc, mà chúng ta không chịu nhường nhịn nhau. Tâm con người lúc nào cũng tham muốn đủ thứ, lúc thì muốn cái này, khi thì muốn cái kia.

Người nam thường quan niệm rằng, mình là trụ cột gia đình, vợ chỉ là người tuân theo, nếu không làm theo đúng ý mình thì chửi mắng, hành hạ, đánh đập. Bởi vì người nam thường cho rằng, mình là phái mạnh, là trụ cột gia đình, có quyền quyết định tất cả theo quan niệm khi xưa của thời phong kiến, “chồng chúa vợ tôi”.

Đó là nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, gây đau khổ và làm tan vỡ hạnh phúc. Vì vậy, sống trong cõi đời này, chúng ta phải biết tu tập để thấy rõ được nguyên nhân sâu xa của nó, cố gắng vượt qua những bất hạnh, khổ đau do hai vợ chồng không biết thông cảm và tha thứ cho nhau. Trong cuộc sống hiện tại của một số gia đình, tuy dường như thấy hạnh phúc, nhưng hạnh phúc trong gượng gạo, không phải là thứ hạnh phúc chân thật và lâu bền.

Do đó, để tạo được hạnh phúc thật sự trong cuộc sống gia đình, mọi người phải biết nhường nhịn lẫn nhau, chồng nói vợ nghe, chồng giận vợ nhịn, vợ khuyên thì chồng phải biết hối cải, mỗi người phải biết cảm thông, bao dung và tha thứ. Cho nên, ca dao Việt Nam có câu:

Chồng giận thì vợ bớt lời,

Cơm sôi, bớt lửa, mấy đời cơm khê.

    Nhân duyên nói về tâm vô thường, tôi kể câu chuyện trên để chúng ta cùng nhau suy ngẫm lời Phật dạy. Tâm con người luôn thay đổi và biến dạng, không lúc nào ngừng nghỉ; vì vậy chúng ta phải khéo tu, nhờ tu mà mình dễ dàng cảm thông và tha thứ cho nhau.

Như trường hợp hai vợ chồng trong câu chuyện trên, đã quyết chí ly hôn dù nhiều người khuyên nhủ, cả hai người vẫn khăng khăng trước sau như một, nhất quyết ra toà ly dị, nhưng khi người vợ hỏi mấy đứa con theo ai, ba đứa đều trả lời theo mẹ. Lúc đó, người chồng nghe ba đứa con nói vậy nên chìu theo ý mấy đứa con, “chúng nó theo bà, thì tôi cũng theo em luôn.” Thế là từ đó về sau, hai vợ chồng chung sống với nhau rất hoà thuận và hạnh phúc, nhờ biết cảm thông và nhường nhịn lẫn nhau.

Cũng nhờ tâm con người vô thường, luôn thay đổi, chúng ta mới tu được, mới chuyển hóa được những ý nghĩ xấu xa, hại người vật, thay vào đó là những tâm tư thiện lành, tốt đẹp, có tính cách giúp đỡ, an ủi nhau. Trong kinh Phật dạy rằng, “tâm phàm phu cứ lén lút đi một mình, rất xa, vô hình dạng, như ẩn náu hang sâu, nếu điều phục được tâm thì thoát khỏi khổ đau, mê lầm từ muôn kiếp.”

Có một chú tiểu xuất gia với thầy mình, nguyên là cậu ruột ngoài đời, vị thầy này đã chứng quả A-La-Hán. Một hôm, chú tiểu được thí chủ cúng dường cho hai xấp vải. Chú mừng quá, nhanh chân đi về chùa để cúng dường lại cho thầy, nhưng chú năn nỉ mãi mà thầy vẫn không nhận, buồn quá, chú nản chí, không muốn tu tập nữa.

Hôm nọ, chú đang đứng quạt hầu thầy, trong lòng vẫn còn buồn về chuyện thầy không chịu nhận hai xấp vải, chú mơ màng để tư tưởng trở về với dòng đời: Mình mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, chỉ có cậu là người thân yêu duy nhất, nay là thầy mình, vậy mà thầy không thương tưởng, đoái hoài đến mình, thôi thì mình không theo thầy tu học nữa, mình ra đời gầy dựng sự nghiệp thế gian cho rồi. Nhưng ra đời rồi phải làm gì để sống đây?

Chú cứ miên man trong dòng suy tư, nghĩ tưởng, mà lòng càng thêm buồn rầu, lo lắng, bất an. Đang lúc mơ mộng chạy theo dòng suy tư, nghĩ tưởng, bỗng nhiên chú loé lên một vấn đề:À đúng rồi, hay là mình đem hai xấp vải này ra chợ bán đi, lấy tiền mua một con bò cái về nuôi, bò chỉ ăn cỏ ngoài đồng, không tốn tiền mua thức ăn cho nó, còn mình hằng ngày chỉ việc dẫn bò đi ăn. Sống như thế thật là sung sướng và hạnh phúc làm sao? Bò thì mỗi năm sanh một con, đến chừng tám năm sau, mình có thêm một đàn bò chừng hơn chục con. Thế thì tốt quá, rồi mình sẽ bán hết số bò đó, chỉ chừa lại một con nuôi tiếp, còn lại bao nhiêu mình mua nhà cửa, đất đai, ruộng vườn. Khi đó, mình sẽ là ông chủ một gia tài đồ sộ, và sẽ cưới một cô vợ trẻ xinh đẹp. Sau khi đứa con đầu lòng được sinh ra đời, mình sẽ dẫn vợ con về thăm thầy, cho quy y làm đệ tử Phật.

Nghĩ như thế xong, trong lòng chú tiểu mừng vô hạn, bỗng dưng cô vợ trượt chân té, thằng bé đang bồng trên tay kháu khỉnh rơi xuống đất, khóc bù lu bù loa, tức quá, không kìm hãm được cơn giận, chú sẵn trên tay cầm cây quạt khỏ lên đầu vợ liền mấy cái, đã bảo mà, đi không nhìn trước ngó sau gì hết, để con bị té như vậy, đàn bà gì mà không ý tứ chút nào”.

Bỗng nhiên, chú nghe một giọng nói điềm đạm, “con đang gõ lên đầu thầy, con có thấy không?”

Giật mình, chú tiểu tỉnh lại giấc chiêm bao mà sám hối xin thầy tha thứ tội lỗi.

Câu chuyện trên đã nói lên tâm ý của con người lúc nào cũng toan tính, tham muốn đủ thứ, suy nghĩ hết chuyện này lại đến chuyện kia; vì chúng ta cho rằng tâm này là ta, là mình, nên ta nói, ta suy nghĩ đủ thứ. Chú tiểu đang đứng hầu thầy mà tâm tư cứ tưởng nghĩ đâu đâu, chẳng khác nào loài vượn khỉ đang chuyển cành. Cho nên, Phật dạy, tâm suy tư nghĩ tưởng là vô thường không thật có, khi ta nhìn lại thì thấy nó mất tiêu.

Bởi tâm ý con người vô thường thay đổi, nên mình mới tu được; còn nếu tâm con người không thay đổi được thì trước sau như một, làm sao mình tu tập được và cũng chẳng cần tu để làm gì? Vì có tu nó cũng như vậy, không thể thay đổi được, chúng ta vẫn suốt đời, suốt kiếp sống trong vô minh, phiền não mà thôi.

Trong cuộc sống, chúng ta ít nhiều ai cũng có thể cảm nhận được rằng, tâm này là vô thường. Cho nên, vua Trần Thái Tông, một vị Thiền sư đời nhà Trần, Việt Nam nói về tâm suy nghĩ như sau: Nghiệp căn ý là nghĩ vơ nghĩ vẩn, không lúc nào dừng, mắc mứu tình trần, kẹt tâm chấp tướng như tằm kéo kén, càng buộc càng bền, như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt.

Chúng ta ai cũng nghĩ hết chuyện này đến chuyện nọ, nào là buồn, thương, giận, ghét, khen chê, đúng sai, phải quấy, tốt xấu, lo lắng đủ thứ, khi thì điên đảo vọng tưởng, nghĩ mình là trung tâm của vũ trụ, nên khi có quyền hành trong tay thì muốn” bình thiên hạ”, do đó vua Trần Thái Tông mới nói:

Nghĩ vơ nghĩ vẫn, không lúc nào dừng.

      Tâm đã suy nghĩ lăng xăng, còn cho mình là ta, là tôi, nên dính mắc, chấp trước vào đó, và còn cho rằng cái hay suy nghĩ của mình là nhất thiên hạ. Đôi khi, chúng ta suy tư, nghĩ tưởng muốn vỡ tung cái đầu, mà vẫn cứ suy nghĩ hoài không để nó yên; đó là ta tự chuốt hoạ vào thân như con tằm kéo kén, càng buộc càng bền, rồi rốt cuộc rồi bị người ta cho vào nồi nước sôi.

Cái hay suy nghĩ, tính toán, phân biệt hơn thua đủ thứ hết luôn thay đổi trong từng phút giây, mới vừa buồn khóc đó, chưa ráo nước mắt liền vui vẻ khi gặp người thân, mới giận liền thương. Trong một ngày, có hàng trăm cái hay suy nghĩ như vậy, có khi nghĩ điều thiện lành, tốt đẹp như Phật, có lúc nghĩ điều xấu, ác giống như cọp sói.

Tâm niệm của chúng ta lúc nào cũng luôn thay đổi không dừng, vì thế đức Phật mới nói, tâm suy tư nghĩ tưởng là vô thường, đã vô thường mà cứ nhận lầm mình là ta, là tôi; từ đó, ai không đồng quan điểm với mình thì chống đối lẫn nhau, dẫn đến thù hằn, ghét bỏ, rồi tìm cách giết hại nhau.

Phật dạy, “chúng ta thấy rõ tâm vô thường để mọi người đồng cảm thông với nhau, ai cũng có cái suy nghĩ riêng của mình, nên không ai giống ai. Do suy nghĩ và quan niệm không hợp nhau, sinh ra oán giận, thù hận và chống đối lẫn nhau. Trong gia đình, con cái không biết kính trên nhường dưới, vợ chồng không vui vẻ, hoà thuận, chỉ vì chấp trước cho rằng tư tưởng của mình là đúng, không ai nhường nhịn ai.

Chúng ta vẫn biết, tâm vô thường không phải là gươm đao hay súng đạn, nhưng nó có thể giết chết mình vì bất đồng quan điểm, giết chết mình trong từng ý niệm. Một ý nghĩ vừa dấy lên, muốn lấy trộm đồ của người khác, nếu ta không biết kịp thời ngăn dừng, thì bao tai họa sẽ bắt đầu ập đến bởi tâm tham lam của mình.

Chính vì vậy, người Phật tử chân chính phải biết tu ngay nơi ý nghĩ ban đầu vừa mới chớm lên, để chuyển hoá chúng trở về bản thể ban đầu. Chúng ta chỉ cần điều phục ngay nơi tâm ý của mình, bằng cách nghĩ điều có lợi cho người và vật, nên duy trì và tiếp tục phát huy.

Những suy nghĩ làm tổn hại cho người vật thì mình tìm cách chuyển hóa, không cho chúng phát sinh; tu như vậy thì mọi người sẽ được bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, khỏi mong cầu đâu xa.

TỰ TẠI KHI BIẾT VÔ THƯỜNG

     Trên đời này, không có gì hạnh phúc cho bằng khi ta đang đứng trước lằn tên, mũi đạn, mà vẫn bình tĩnh, an nhiên, tự tại. Một vị Thiền sư đã nói trước lúc ngài bị hành hình:

Đưa đầu kề gươm bén,

Giống như chém gió xuân.

     Chúng ta thấy, vị Thiền sư đó quá ư là hạnh phúc. Đứng trước cái chết sờ sờ trước mặt mà Thiền sư vẫn bình tĩnh, ung dung, coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Nếu ai sống được như vậy thì có gì phải lo lắng và sợ hãi, dù cho tám gió thổi tới cũng không làm gì được Thiền sư, vì Ngài đã như như bất động.

Cư sĩ Bàng Long Uẩn trước kia làm quan theo nghiệp nho, sau có dịp tham cầu Phật pháp, liễu ngộ sự vô thường của cuộc sống, nên ngài quyết chí tu hành cầu giác ngộ, giải thoát, ngài sống một đời rất đơn giản và thanh bần.

Ông có một vợ và hai đứa con, một trai, một gái. Sau khi đốn ngộ lý nhiệm mầu của Phật pháp không ngoài thân này, không tìm cầu đâu xa, ông trở về nhà, đem hết tài sản, của cải đổ xuống sông Tương, hằng ngày cùng cô con gái chẻ tre, đan sọt mang ra chợ bán. Vợ ông cùng đứa con trai để lại chút đất làm ruộng nuôi thân qua ngày, không màng đến công danh sự nghiệp. Cho nên, thế gian có bài thơ khen tặng và ca ngợi gia đình ông như sau:

Có con trai không cưới vợ,
Có con gái không lấy chồng,
Cả nhà đều sống hoà hợp,
Cùng nhau nói lời vô sanh.

    Đúng là chuyện khó tin nhưng mà có thật, hiếm thấy trong cuộc đời này, ít có gia đình nào mà cả nhà đều rũ bỏ hết danh lợi, sống đời thanh bần, trong sạch, đem giáo lý giác ngộ, giải thoát ứng dụng vào đời sống hàng ngày mà làm gương cho hậu thế. Người đời vì không biết, nên tham lam, sân hận, si mê, cái gì cũng muốn giành lấy về cho riêng mình, sẵn sàng tán tận lương tâm, làm điều xằng bậy, không biết nhân quả, nghiệp báo, tội phước là gì.

Bàng Long Uẩn là một ông quan có quyền thế, danh lợi đầy đủ, mà lại dám bỏ hết tất cả để sống đời đơn giản, thanh bần, trong sạch, và còn hướng dẫn cho cả gia đình cùng tu theo. Cho nên, có con trai không cho lấy vợ, có con gái không cho lấy chồng, để cùng nhau sống đời giác ngộ, giải thoát.

Nhiều người ở thế gian vì tiếc nuối tài sản, của cải, nên nói rằng, “tại sao ông không đem tài sản đó để bố thí, giúp đỡ nhiều người khác, mà đổ hết xuống sông Tương như vậy quá phí phạm, trong khi nhiều người rất cần nó vì đang thiếu thốn, khó khăn?” Việc này, chúng ta phải hiểu theo ý sâu xa của nó, khi con người sống với bản tâm chân thật thì không màng đến danh lợi, của cải vật chất, vì nó là nguyên nhân dẫn đến mọi khổ đau trong cuộc đời.

Đến khi sắp tịch, ông bảo cô Linh Chiếu-con gái của ông ra xem thử mặt trời đúng ngọ chưa, rồi vào cho ông hay. Linh Chiếu ra xem, vào thưa, “mặt trời đúng ngọ, nhưng có nguyệt thực”. Ông ra cửa xem. Linh Chiếu lên toà của ông ngồi kiết già, chấp tay thị tịch. Ông vào xem thấy, cười nói, “con gái ta lanh lợi quá!” Ông bèn chậm lại bảy ngày sau. Châu mục Vu Công đến thăm bệnh ông. Ông bảo, “chỉ mong các cái có đều không, dè dặt các cái không đều thật, khéo ở thế gian đều như bóng vang”.    Nói xong, ông nằm gác đầu trên gối Vu Công mà thị tịch. Tin ông tịch đưa về nhà cho bà hay. Bà nói, “con gái ngu si và ông già vô tri không báo tin mà đi, sao lại ngớ ngẩn vậy?” Bà ra báo tin cho con trai đang làm ruộng biết, “ba con và Linh Chiếu đi rồi”.      Người con trai đáp, “dạ, con biết rồi”, rồi đứng lặng thinh giây lâu, liền tịch tại chỗ.       Bà nói, “lại thêm một thằng ngu si nữa”. Lo mai táng con xong, bà từ biệt họ hàng thân thuộc rồi biệt tích luôn, không ai biết bà đi về đâu.

Đây là một câu chuyện hy hữu, hiếm có từ trước đến nay, có thật trong Thiền sử Trung Hoa, gia đình cư sĩ Bàng Long Uẩn là một tấm gương sáng chói, đáng để cho chúng ta học tập và noi theo. Sau khi thấu suốt lý vô thường, ông quyết chí cầu đạo giác ngộ và giải thoát., nhưng dưới hình thức là một người cư sĩ tại gia, nhưng tâm hạnh thì của người xuất gia. Cốt chuyện này nói lên tinh thần bình đẳng trong tu tập, người tại gia vẫn có phần giác ngộ giải thoát nếu tu đúng lời Phật dạy, bởi ai cũng có tính biết sáng suốt ngay nơi thân này, chỉ cần chúng ta quyết chí là được.

Như ở Việt Nam, chúng ta vẫn có Ngài Tuệ Trung thượng sĩ đó, trước lúc ra đi vẫn an nhiên tự tại, để ta thấy mọi người đều có phần, chỉ vì chúng ta chẳng chịu thừa nhận mà thôi. Muốn được như vậy, ông phải bỏ hết tất cả tài sản, của cải, vật chất, không còn bận tâm, vướng mắc, sống đời đơn giản để dễ dàng tu hành. Nhờ vậy, cả gia đình ông đều ngộ đạo, làm chủ được sự sống chết, bình thản ra đi một cách an nhiên, tự tại.

Thưa quý thiện hữu tri thức, chúng ta học những lời Phật dạy, ai cũng biết thân và tâm đều vô thường, còn hoàn cảnh và vạn vật có vô thường hay không? – Cũng vô thường.

 

HOÀN CẢNH VÔ THƯỜNG

    Đức Phật dạy, “mọi hiện tượng, sự vật đều tương quan mật thiết, nương nhờ lẫn nhau, cho nên, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. Tất cả các pháp có hình tướng trên thế gian này đều do nhân duyên sanh, nên hoàn cảnh sự vật cũng đều đổi thay vô thường.

Lớn như quả địa cầu chúng ta đang sống, dù nó có trụ hàng tỉ tỉ năm, nhưng đến một lúc nào đó, nó cũng sẽ hoại diệt, nên Phật nói, “thành-trụ-hoại-không” là vậy.

Kính thưa quý vị, hoàn cảnh, tức là những sự vật có mặt trong bầu vũ trụ bao la này như trời, đất, trăng, sao, đủ các thứ thiên hình, vạn trạng, cho đến vật nhỏ nhất như hạt cát, hạt bụi, cũng đều bị sự vô thường chi phối, đổi thay.

Mới xưa kia là lầu cát nguy nga, tráng lệ, mà nay là biển cả mênh mông, xưa là rừng hoang vắng vẻ, nay thì phố xá, chợ búa đông đúc; đó là lẽ đương nhiên thường tình của thế gian. Do hoàn cảnh, sự vật luôn thay đổi, biến dạng, tuỳ theo nhân duyên thuận nghịch, không có gì là cố định, nên nói hoàn cảnh chúng ta đang sống là vô thường.

Ai cũng biết, con người phải chịu sự chi phối của sinh-già-bệnh-chết, nên gọi là vô thường; còn các vật thể lớn như trời, đất, trăng, sao có chịu sự chi phối của luật vô thường hay không?

Trong Kinh Kim Cang nói, “phàm cái gì có hình tướng đều hư hoại”. Chính núi sông cũng có lớn, có nhỏ, khi lỡ, khi bồi, rồi thời gian, khí hậu bốn mùa thay đổi, sớm nắng, chiều mưa; mùa nắng thì cây cối ủ rủ, cằn cỗi, héo tàn; mùa mưa thì cây cối xanh tươi, nẩy nở; và thời gian cứ như thế trôi qua nhanh chóng, trên thế gian này không có một thứ gì là cố định; nhưng chúng ta cứ mãi chấp chặt vào đó, cho rằng cái gì cũng thường còn vĩnh viễn, để khi mất mát thì sanh tâm tiếc nuối, khổ đau.

Tóm lại, chúng ta học đạo lý vô thường để không sanh tâm cống cao, ngã mạn lúc thành công, không bi quan, chán nản khi thất bại, mà biết nhìn nhận đúng lẽ thật cuộc đời để mình sống tốt hơn. Thân của chúng ta cũng phải già-bệnh-chết, mình cũng đâu thể cưỡng lại được, vì bản chất của nó là không thật có, nên gọi là vô thường; còn cái gì thường thì trước sau như một, nguyên vẹn, không bao giờ thay đổi.

Do chúng ta chấp thân này là thật, nên mới thấy nó cao quý, lâu dài, cố bám víu, đắm say, đam mê, tham lam, giành giựt vì nó. Bởi chúng ta si mê, chấp thân này là thường, tưởng nó là thật, nên mình sanh lòng tham lam, giành lấy mọi thứ về cho riêng mình, mà hễ tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sanh ra oán ghét, hận thù, chờ cơ hội trả đũa.

Trên cõi đời này, người nào nhận rõ được thân này là vô thường thì ít sanh lòng tham lam, ích kỷ, cho đến khi già-bệnh-chết không lo lắng, sợ hãi, không luyến tiếc một thứ gì. Do đó, khi sống người ấy được bình yên, hạnh phúc, đến khi chết vẫn bình thản, an nhiên, tự tại ra đi.

Đức Phật chỉ dạy đạo lý vô thường để giúp chúng ta ý thức được cái gì có hình tướng đều hư hoại mà cố gắng tu hành, vượt qua nỗi khổ, niềm đau, biết gầy dựng cuộc sống tốt đẹp ngay tại đây và bây giờ; và cũng nhờ vô thường nên con người cho đến các loài vật mới đổi thay và phát triển sao cho phù hợp với cuộc sống hiện tại.

ÔNG GIÀ VÔ THƯỜNG

Có một ông già nọ tuổi đã già, nhưng hàng ngày vẫn phải làm lụng vất vả để nuôi thân. Một hôm, sau khi vào rừng đốn củi mang về, vì đường sá xa xôi, lại phải vác nặng, nên ông cụ kiệt sức giữa đường. Ông đặt bó củi xuống đất rồi ngồi than thở một mình, “khổ cho thân già tui quá trời! Đến từng tuổi này mà còn gian nan, vất vả quá chừng! Giá mà bây giờ thần chết đến rước mình đi thì hay biết mấy! Mình muốn bỏ quách cái thân già khốn khổ này đi cho rồi”.

Ông nói vừa dứt lời, vị thần chết xuất hiện ngay, “ta là thần chết đây, ông lão cần gì, ta sẽ giúp cho ông được toại nguyện?” Ông già nghe nói vậy, sợ quá, run lên cằm cặp nói, “dạ, kính lạy thần chết! Xin ngài nhấc hộ dùm bó củi lên vai để lão vác về kẻo trời tối”.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy con người khi khổ quá thì muốn chết, doạ chết, đòi chết, trối chết, nhưng đến khi cái chết đến gần thì sợ hãi, không muốn chết. Ông già tiều phu kia cũng vậy, lúc thấy mình quá khổ, phát sinh ý chết quách để hết khổ, thân xác khỏi phải nhọc nhằn, nhưng khi thần chết hiện ra thì ông hoảng hồn, sợ chết, muốn đặt gánh củi lên vai và cảm thấy việc gánh củi về nhà là điều hạnh phúc nhất.

SỐNG CÓ ÍCH VÌ BIẾT VÔ THƯỜNG

Đức Phật dạy chúng ta hiểu được lý vô thường, mục đích là để ta biết sống có bổn phận và dám chịu trách nhiệm về mọi hành vi tạo tác của mình đối với gia đình, xã hội, không bi quan, không yếm thế, không chán nản, không buồn lo trước cuộc sống tạm bợ, mong manh này.

Cũng bởi kiếp người vốn vô thường, ngắn ngủi, mong manh, nên trong Khế Kinh có kể rằng: Có một người chuyên làm việc ác, khi chết bị quỷ sứ bắt vong hồn dẫn đến trình vua Diêm Vương. Vua hỏi, “ở trần gian, sao ngươi không làm việc thiện mà hay làm việc ác như vậy, để bây giờ bị đoạ xuống đây chịu hành hình?” Vong hồn ấy trả lời, “thưa Diêm chúa, ở trần gian chúng tôi, nhà nước muốn làm việc gì còn phải thông báo trước, tại sao ở Âm phủ, Ngài bắt người chết đột ngột thế này, thử hỏi làm sao tôi làm việc thiện cho kịp được?” “ngươi ở trần gian có thường thấy người già, người bệnh, người chết hay không?” “Dạ thưa có.” “Đó là những thông điệp mà ta đã báo trước cho người trần gian biết rồi đấy, ngươi có thấy trên đời này có ai không phải già-bệnh-chết không?” “Dạ thưa không.” “Vậy tại sao ngươi không lo tu tập, lo làm việc thiện, để bây giờ bị giải xuống đây rồi ngươi lại cãi chày, cãi cối với ta?”

Lúc bấy giờ, một vong hồn trẻ tuổi ngồi bên cạnh liền lên tiếng phản đối Diêm Vương, “dạ thưa Ngài, tôi không chịu đâu, Ngài thật là không công bằng chút nào; đối với ông già kia, Ngài đã gửi nhiều thông điệp cho ông ta, còn tôi Ngài chưa hề gửi cho một thông điệp nào mà bắt tôi xuống đây, thật oan uổng cho tôi quá chừng!” Diêm chúa nghe vong hồn trẻ khiếu nại, liền cười, “tại nhà ngươi không chịu mở mắt to ra mà thấy, chứ ta làm việc rất công bằng, không bao giờ có chuyện thương người này, mà ghét bỏ người kia. Ta lúc nào cũng có gửi tin báo trước cho mọi người hay biết, tại nhà ngươi không chịu để ý đó thôi.” “Ngài gửi thông báo lúc nào, sao tôi không thấy?”     Diêm chúa mới cười nói, “nhà ngươi có thấy đứa bé ở nhà đối diện với ngươi hay không? Nó mới năm tuổi mà bị chết vì tai nạn giao thông đó! Còn ngươi lớn tuổi hơn nó lẽ nào lại không chết. Ta lúc nào cũng công bằng liêm chính, chí công vô tư, tại ngươi không chịu để ý, hoặc ngươi thấy mà vẫn làm càn, làm bướng đó thôi”.

Đạo Phật dạy, mạng sống con người vốn vô thường, ngắn ngủi, giống như ngọn đèn treo trước gió, có thể bị tắt đi bất cứ lúc nào. Thân người cũng vậy, không phải ai cũng chờ đến già, bệnh mới chết, mà mạng sống kết thúc bất cứ lúc nào với muôn ngàn lý do, vì vậy mà có câu:

Chớ bảo đến già mới tu tập

Mồ hoang cũng lắm kẻ đầu xanh.

      Hiểu được lý do vô thường của vạn vật để mỗi người chúng ta cố gắng học hỏi và tu tập, đem tình yêu thương san sẻ với muôn loài bằng trái tim hiểu biết. Chúng ta đừng quá say mê, tham đắm vào xác thân này mà làm khổ luỵ cho nhau. Câu chuyện trên cho ta một bài học đạo lý về mạng sống con người vốn vô thường, tạm bợ. Quý vị nên nhớ rằng, sau khi chết không phải là hết hay mất hẳn, mà chết chỉ là hình thức thay hình, đổi dạng mà thôi, rồi tuỳ theo nghiệp báo tốt, xấu của mỗi người đã gieo tạo trong hiện tại, mà cho ra kết quả trong tương lai.

Thế gian này không có gì là mất hẳn dù là hạt bụi, hạt cát, chúng chỉ thay hình đổi dạng. Hiểu được lý vô thường để mọi người chúng ta sống có ý nghĩa hơn, làm được nhiều điều thiện lành, tốt đẹp, luôn sống có ích cho mình và người trong hiện tại và mai sau.

Ai sống được như vậy, đến khi thần chết hiện đến, ta không sợ hãi, hốt hoảng, mà bình thản ra đi với một hành trang tốt đẹp; còn những thứ của thế gian như tiền tài, vàng bạc, nhà cửa, mình đều bỏ lại, không mang theo được món nào, lúc ấy chỉ có nghiệp báo tốt, xấu do ta tạo dựng lúc còn sống sẽ theo mình suốt đời mà thôi. Biết được như vậy, lúc lâm chung ta sẽ an lòng ra đi, không tiếc nuối bất cứ một thứ gì của thế gian, kể cả sự sống.

NGHIỆP VÀ SỰ SỐNG

    Tất cả mọi người, ai sinh ra trên cõi đời này đều phải chịu sự chi phối của nghiệp. Người Phật tử mà không hiểu rõ ràng, cặn kẽ về nghiệp báo, thì sự tu hành khó mà đạt đến chỗ an lạc, giác ngộ và giải thoát. Vậy nghiệp là gì mà Phật tử chúng ta cần phải hiểu để áp dụng trong đời sống hằng ngày?

Nghiệp rất đa dạng, phức tạp và phong phú, bởi nghiệp là sự kết tụ của những năng lực, những hành động được lặp đi, lặp lại nhiều lần qua thân-miệng-ý, lâu ngày trở thành thói quen; rồi thói quen đó có sức mạnh chi phối, dẫn dắt thần thức chúng ta đi vào trong luân hồi sanh tử.

Tuy nghiệp rất đa dạng và phức tạp, không cố định như ta lầm tưởng, do đó mình có thể thay đổi thông qua sự tinh cần tu tập, hành trì những lời Phật dạy, chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Nghiệp gồm có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Cộng nghiệp là nghiệp chung của nhiều người, biệt nghiệp là nghiệp riêng của từng người.

Nghiệp là thói quen huân tập lâu ngày thuần thục, tạo thành sức mạnh, có khả năng chi phối mọi người sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Ngay từ khi mở mắt chào đời, con người đã chịu nghiệp nhân của quá khứ, dần dần khôn lớn, con người tiếp tục tạo tác và huân tập thêm những nghiệp nhân mới.

Ai biết sống gần gũi những người hiền thiện, đạo đức, có nhân cách và phẩm chất cao đẹp, hay làm những điều hay lẽ phải, nhờ sống gần người hiền thiện nên mình cũng bắt chước làm người tốt theo, và có thể giúp ích cho gia đình, xã hội, không vì quyền lợi cá nhân.

Còn người hay sống gần gũi những kẻ xấu ác, bất lương, bất thiện, lâu ngày sẽ bị tiêm nhiễm thói hư, tật xấu, tự làm khổ mình, hại người, và sẽ bị mọi người khinh chê, xa lánh.

Cũng vậy, chúng ta sanh ra trong cuộc đời này, mỗi người đều phải mang theo nghiệp riêng của mình. Vì thế, trong một gia đình, nhiều người cùng sống chung với nhau, nhưng mỗi người chấp giữ và làm theo nghiệp riêng của mình, nên không ai chịu thừa nhận nghiệp riêng của người khác. Do đó, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em trong nhà không có sự hòa hợp với nhau là vậy đó, vì ta không biết tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau.

Chính vì thế, trong một cộng đồng xã hội mới có sự tranh chấp, cãi vã, xung đột, không chịu nhường nhịn, gây đau khổ, bất hạnh cho nhau.Trong gia đình, người chồng huân tập nghiệp của người nam, người vợ huân tập nghiệp của người nữ, hai nghiệp này không giống nhau, đôi khi nghiệp của hai vợ chồng có nhiều điểm sai biệt và tương đồng với nhau. Cho nên, có nhiều cặp vợ chồng gây cãi, đánh đập với nhau hoài, chỉ vì người nào cũng chấp cái lý lẽ, cái hành động của mình là đúng, không chịu thông cảm, tha thứ cho nhau, để tạo nên bầu không khí gia đình ấm êm, an lành, hạnh phúc.

Xưa có một gia đình nọ, người vợ biết lo làm ăn, tiết kiệm, luôn tròn bổn phận người vợ đối với chồng, biết quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho con cái đàng hoàng. Ngược lại, người chồng thì bê tha, biếng nhác, rượu chè, cờ bạc. Mỗi lần ông cờ bạc bị thua, về nhà kiếm chuyện gây gỗ với bà, nếu vợ không đáp ứng đủ các thứ cho ông, thì bị ông chửi mắng, đánh đập tàn nhẫn. Người trong nhà và hàng xóm ai thấy cũng thương tâm, không biết bà đã gieo tạo nghiệp nhân gì mà phải chịu quả báo như thế. Mọi người thắc mắc tại sao bà lại không chịu ly dị, bà nói vì bà vẫn còn thương chồng, nên bà không ly dị.

Bởi do mỗi người đều có nghiệp riêng của mình, không ai giống ai. Kết nghĩa vợ chồng với nhau mà sống bất hạnh, khổ đau như vậy là do hai người đã có tạo nghiệp ngang trái, nợ nần với nhau, nên dù bị đánh đập, chửi mắng, đối xử với nhau thậm tệ, mà người ta vẫn cứ thương nhau, không thể rời xa nhau được.

Ai thấu hiểu được vấn đề nghiệp riêng này, họ sẽ dễ dàng thông cảm và tha thứ cho nhau. Chỉ vì ta không thường xuyên quán chiếu, hoặc thiếu tu hành, nên mới xảy ra nhiều điều bất hạnh như thế. Do vậy, chúng ta thấy, nhiều người sinh ra trong một gia đình, cùng cha, cùng mẹ, cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc, cùng học hành, thế mà mỗi người mang một tính khí khác nhau. Sự sai biệt ấy là do nghiệp riêng của mỗi người tạo nên, còn việc họ được sinh ra và chung sống trong một gia đình là do họ cũng có một số nghiệp chung với nhau. Những người có nghiệp duyên với nhau là do họ đã có cộng nghiệp với nhau từ kiếp trước, nên đời này họ mới phải chịu chung một hoàn cảnh nhất định nào đó.

NGHIỆP CHUNG VÀ NGHIỆP RIÊNG

Trong thời Phật còn tại thế, tại núi Linh Thứu, cùng lúc có nhiều đoàn Tỳ kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất đi theo ngài Xá Lợi Phất, đoàn thứ hai đi theo ngài Mục Kiền Liên, đoàn thứ ba đi theo ngài Phú Lâu Na, đoàn thứ tư đi theo ngài A Na Luật, đoàn thứ năm đi theo ngài Đề Bà Đạt Đa… Khi thấy các đoàn tỳ kheo hành thiền riêng biệt như vậy, đức Phật mới nói rằng, “đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Xá Lợi Phất có nghiệp chung với Ngài, nên có trí tuệ đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Mục Kiền Liên có nghiệp chung là thần thông đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Phú Lâu Na có cộng nghiệp là thuyết pháp đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài A Na Luật có nghiệp chung là  thiên nhãn đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Đề Bà Đạt Đa có nghiệp chung xấu ác, tranh giành, giết chóc, sau này dễ bị đoạ lạc.

Tuy nhiên, không phải ai theo ngài Xá Lợi Phất là có trí tuệ đệ nhất, mà cần phải có thời gian hành trì, học hỏi, vì ai cũng có nghiệp riêng của mình, nên mức độ đạt được tuỳ theo khả năng, không nhất định là ai cũng được như vậy.

Do đó, nghiệp cũng không cố định, có thể thay đổi được, vì sao? Vì nghiệp từ thân-miệng-ý tạo tác mà thành, tuy có tác ý nhưng không thật. Cái gốc của việc tạo nghiệp lành, nghiệp ác không có thật, bởi do si mê, ngu muội, mà tạo tác thành nghiệp dữ;  nếu ta biết định tĩnh, sáng suốt, thì tạo tác nên nghiệp lành.

Phật dạy, nghiệp là cái không thật, tuy biết nó không thật, nhưng nếu si mê, để bị dính mắc nghiệp xấu ác, thì sẽ thọ quả khổ đau không ai tránh khỏi, chỉ có người biết tu tập, làm nhiều điều thiện lành thì quả xấu sẽ nhẹ hơn. Đối với thế gian, người khôn ngoan có thể che giấu, trốn tránh tội lỗi, nhưng đối với nghiệp báo thì ai tạo nghiệp gì thì phải chịu quả ấy, không thể trốn tránh vào đâu được; vì khi tạo nghiệp thì mắt thấy, tai nghe, thân thể cảm thọ, chủng từ nghiệp kết tụ, lưu trữ vào tàng thức, chờ khi hội đủ nhân duyên thì nghiệp sẽ trổ ra.

Có người cho rằng, thân này hành động tạo nghiệp thiện hay ác, đến khi chết thì những hành động ấy đâu còn nữa, chỉ còn lại cái xác nằm trơ, rồi thối rữa, rã tan, làm sao biết được nghiệp ấy còn hay mất.

Đây là quan niệm hết sức sai lầm của không ít người lầm chấp, cho rằng chết là hết, không có nhân quả, không có tội phước, nên họ mặc tình hưởng thụ các dục lạc thế gian, tha hồ gây tạo tội lỗi, có khi gây nên tội ác tày trời mà lòng không chút ân hận. Chính cũng vì quan niệm sai lầm như vậy mà bản thân tôi hơn nửa đời người đã gây ra biết bao lầm lỗi. Nhờ duyên gặp được Tam Bảo, gặp được Phật pháp, gặp được bậc minh sư chân chánh, tôi mới quay đầu làm lại cuộc đời, làm mới lại chính mình.    Nếu không nhờ Tam Bảo, nhờ Phật Pháp và minh sư chỉ giáo, hôm nay tôi làm gì có cơ hội được chia sẻ cùng với quý Phật tử ở đây.

Khoảng năm Mậu Thân (1968), lúc ấy tôi chỉ là một cậu thiếu nhi mà đã biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc. Vậy cái gì đã xuôi khiến, thúc giục tôi đi vào con đường hư hỏng, sa đoạ quá sớm như vậy? Điều ấy trong nhà Phật gọi là tập nghiệp. Tập nghiệp đời trước cộng với sở thích trong đời hiện tại đưa đẩy chúng ta vào hố sâu tội lỗi.

Cho nên, ngay tại đây và bây giờ, quý vị đã có duyên được đến chùa nghe pháp, tụng kinh, lễ Phật, sám hối, tức là quý vị đã có hạt giống nghiệp lành với nhau từ nhiều đời trước rồi. Nếu không, bây giờ quý vị đã ngồi ở nhà mở truyền hình xem phim, hoặc đi chơi chỗ này, chỗ kia như bao người khác, chứ quý vị đâu có muốn đến chùa nghe pháp, học Phật với nhau như thế này. Đây đúng thật là một duyên lành hạnh phúc cho đời mình trong hiện tại, và nó sẽ còn lưu giữ để duy trì tới kiếp sau.

Hiện tại, quý Phật tử đã có phước duyên thiện lành, tốt đẹp rồi, quý vị hãy xem nó như một món ăn tinh thần, ráng mà duy trì, ráng mà phát huy, lúc nào thiếu nó mà quý vị cảm thấy khó chịu thì quý vị nên mừng, bởi vì quý vị đã huân tập được một thói quen tốt. Trong nhà Phật thường nói, thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Ở đây, quý vị đã có được thân người trọn vẹn, khoẻ mạnh, lại biết nghe Phật pháp, và còn biết áp dụng Phật pháp để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Trong kinh, Phật thường nói, “nghiệp theo ta như bóng với hình, dù trải qua trăm kiếp, ngàn đời vẫn không bao giờ bị mất, khi nào hội đủ nhân duyên thì quả báo tự nó hiện ra, không một ai cưỡng lại hay làm sai lệch được”.

Có một thí dụ cụ thể cho chúng ta thấy nghiệp không bao giờ mất. Có hai người khách qua sông, một người là thương gia mua bán, mang theo nhiều tiền bạc, của cải; một người chuyên nghề dạy học, chỉ mang chút ít sách vở và tiền lộ phí. Thuyền qua đến giữa sông, bất thần bị chìm, hai người may mắn được cứu và thoát chết, nhưng hành lý, tư trang, tiền bạc của hai người đều bị dòng nước cuốn trôi mất hết. Cả hai người đều trắng tay, riêng cái hiểu biết của nhà giáo dục không bị mất mát chút nào. Vì sao? Vì kiến thức là cái chuyên môn đã huân tập qua nhiều năm tháng, tức cái sở trường riêng của mỗi người, còn gọi là nghề hay nghề nghiệp, nên nó không bị mất.

Do đó, quý Phật tử tại gia nên lưu ý, khi ta mới sinh ra với hai bàn tay trắng, đến lúc chết đi cũng không mang được gì, duy chỉ có nghiệp lành dữ, xấu tốt, là mình phải mang theo. Lúc ấy, những người thân thương mình nhất như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn bè, không giúp gì cho ta được. Vì vậy, quý vị cần nên thấy biết rõ ràng về nghiệp quả, để khi ta gặp nhiều bất trắc, mình không quá đau khổ, bi lụy.

Và ta nên nhớ rằng, khi chúng ta đã tạo được nhiều nghiệp lành, thì dù cho qua nhiều biến đổi, thân xác này chết đi, tan rã thành cát bụi, nhưng nghiệp thức tốt đó vẫn còn, không mất. Khi chúng ta rời bỏ sự sống, bỏ lại thế gian tất cả gia tài, sự nghiệp, vợ chồng, con cái, họ hàng, thân tộc, bạn bè thân hữu, mình chỉ mang theo nghiệp lành, nghiệp dữ mình đã gây tạo trong đời mà thôi. Đây là một lẽ thật, quý vị cần biết để cố gắng gieo tạo nghiệp lành.

QUẢ BÁO CỦA NGHIỆP

     Một gia đình nọ sống trong làng đánh cá, một bà mẹ có thai và cả làng làm ăn sa sút, nhiều chuyến ra khơi không đánh bắt được cá tôm gì, nhiều gia đình lâm vào cảnh khó khăn, đói kém. Trước tình hình như vậy, các bô lão trong làng mới họp lại với nhau để bàn bạc, tìm xem nguyên nhân vì sao dân làng gặp vận hạn như thế.

Một số người cho rằng, do bà mẹ kia đã lớn tuổi mà lại mang thai là điều quái dị, không hợp luật trời, vì thế dân làng mới chịu cảnh làm ăn thất bát, khó khăn. Một số người khác không nhất trí với ý kiến ấy, cuối cùng làng chia ra làm hai nhóm ra khơi, đánh bắt riêng biệt.

Trong nhiều chuyến ra khơi, nhóm người không tin việc bà mẹ già mang thai, thường xuyên bị nạn, không đánh bắt được cá; nhóm người tin việc ấy thì chuyến nào cũng đánh bắt đầy thuyền. Điều này khiến cả làng tin rằng, bà mẹ mang thai kia chính là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt, khó khăn của làng. Cuối cùng, cả làng quyết định đuổi bà ấy khỏi làng, không cần biết sự sống của bà sẽ ra sao.

Bà ra đi trong tình cảnh vô cùng bi đát, không có thứ gì mang theo, lại đang lúc bụng mang dạ chửa, bà lang thang đó đây, vất vả xin ăn sống qua ngày. Lúc ở nhà còn có chồng chăm lo, nhà cửa đàng hoàng, giờ đây với thân phận một người ăn mày không nhà, không cửa, sống bờ ngủ bụi, nhiều khi vì quá mệt, không xin được chút gì, bị đói khát, bà muốn phá đi cái thai trong bụng để tìm sự thảnh thơi cho riêng mình, nhưng vì cái thai là sự đầu thai của một vị sẽ chứng A La Hán trong kiếp này, nên thai nhi có khả năng chuyển tâm, làm cho bà mẹ không đủ can đảm huỷ hoại cái bào thai ấy.

Thời gian trôi qua, đứa con của bà cũng được ra đời với bao khó khăn chồng chất. Trong những ngày sinh con, bà phải một thân, một mình tự lo mọi thứ, khổ sở tột cùng, bà vẫn cắn răng chịu đựng. Sinh con được mấy ngày, vừa khoẻ được một chút, bà lại phải ẵm con, tiếp tục cuộc hành trình với thân phận ăn mày, rày đây mai đó, để kiếm chút cơm thừa, canh cặn.

Từ đây, trong cuộc mưu sinh, bà lại có thêm đứa bé bên mình. Hai mẹ con cùng nhau lang thang hết làng này sang xóm nọ, rong ruỗi khắp mọi nẻo đường, nhưng vẫn không đủ sống, phải đói khát, vật vờ. Ngày qua ngày, bữa đói, bữa no, áo quần rách rưới, thật chẳng giống ai, nhiều lúc đói lả tưởng chừng không sao sống nổi.

Vậy mà bà vẫn sống để nuôi đứa bé ốm o, gầy mòn. Bà lang thang xin ăn lây lất sống qua ngày, cho đến năm chú bé khoảng ba bốn tuổi. Một hôm, hai mẹ con vào một gia đình giàu có xin ăn, vì thương con phải chịu cảnh ăn mày, thiếu thốn, đói khát thường xuyên, bà bỏ lại đứa con trong vườn của người nhà giàu ấy, rồi trốn đi biệt tâm biệt tích, với hy vọng con mình sẽ được người nhà ấy nuôi nấng tử tế, đàng hoàng.

Bà nghĩ rằng, làm như vậy là để người giàu thương tâm mà nuôi đứa bé. Dù từ bỏ đứa con thân yêu, lòng bà xót xa, đau đớn như đứt từng khúc ruột, lúc nào nước mắt cũng tuôn tràn, quên ăn, bỏ ngủ, nhưng bà hy vọng con mình không khổ như kiếp ăn mày lâu nay.

Nhưng cuộc đời đâu có dễ dàng như vậy, bởi vì nghiệp báo đâu cho phép mình muốn là được. Từ khi người mẹ bỏ đi, đứa bé càng khốn khổ hơn, một mình nó tự xin ăn, có lúc phải lượm từng chút cơm thừa, canh cặn người ta vứt đi để sống qua ngày. Nơi đầu đường xó chợ, người ta thường thấy một đứa bé gầy còm, ốm yếu, đen đúa, lem luốc, ngồi co ro thật tội nghiệp.

Một hôm, ngài Xá Lợi Phất trên đường đi du hoá, thấy một chú bé khoảng chín mười tuổi, thân hình gầy còm, đen đúa, nằm co quắp bên vệ đường. Động lòng thương xót, Ngài đến bên hỏi rõ nguyên nhân mới biết được hoàn cảnh bi đát của chú bé. Sau đó, Ngài mới nói một bài pháp về nhân quả nghiệp báo cho chú bé nghe, rồi Ngài bảo rằng, “con có muốn xuất gia theo thầy không?”

Đứa bé than, “con là đứa ăn mày, một thân, một mình không nơi nương tựa, không cha mẹ, không bà con, họ hàng thân tộc, con thuộc giai cấp hạ tiện, làm sao con có thể xuất gia theo Ngài.”

Thời bấy giờ, việc xuất gia chỉ dành riêng cho giai cấp tôn quý. Nghe vậy, Ngài Xá Lợi Phất mới giải thích, trong giáo pháp của Phật Đà không có phân biệt giai cấp cao quý hay hạ tiện. Ai muốn sống đời giải thoát thì phát tâm gia nhập vào Tăng đoàn. Chú bé vui mừng chấp nhận và được Ngài Xá Lợi Phất đưa về Tăng đoàn. Nơi đây, chú bé lớn khôn, trưởng thành trong môi trường phạm hạnh đầy trí tuệ. Do tu hành tinh chuyên, chú được thọ giới đầy đủ, không bao lâu sau đã trở thành một vị tỳ kheo nổi tiếng phạm hạnh, và chứng quả A La Hán.

Câu chuyện trên đã cho chúng ta một bài học quý báu về tích luỹ nghiệp trong quá khứ và hiện tại, không phải đơn giản như nhiều người hiểu lầm chết là hết, mà chúng ta sẽ phải trả một giá rất đắc nếu đã gây tạo nghiệp xấu ác.

Trên đời này, không có việc gì là không có nguyên nhân sâu xa của nó. Trong nhiều kiếp quá khứ, tiền thân của chú bé là người có tâm tật đố, ghen tỵ, đã ngăn cản nhiều cư sĩ cúng dường một vị Bích Chi Phật, và còn vu oan, xúi bảo người khác không cúng dường. Do tiền kiếp đã gieo những nhân xấu như vậy, nên đời này sinh ra phải làm một chú bé ăn xin nghèo hèn, thiếu thốn đầu đường xó chợ, không chỉ có thân mình chịu quả báo khổ đau mà người sinh ra cậu cũng cùng chung nghiệp ấy.

Khi biết được lý nhân quả nghiệp báo luôn đeo đuổi ta như bóng với hình, mình mới thấy thật khốn khổ khi quả xấu đến. Nếu người Phật tử không thông suốt lý nghiệp báo, sẽ dễ đi đến sai lầm, mà sai một li là đi xa ngàn dặm, không biết sẽ về đâu.

Vì vậy, chúng tôi mong quý Phật tử là người hiểu Phật pháp, biết tu hành theo lời Phật dạy. Nếu chúng ta không có khả năng bố thí, cúng dường, chia sẻ, giúp đỡ người nghèo khó, thì khi thấy người khác bố thí, cúng dường, làm điều phước thiện, chúng ta phải phát tâm tuỳ hỷ, vui theo việc làm tốt đó, thì mình cũng có phước đức không khác gì người bỏ tiền ra giúp đỡ.

Đức Phật thường dạy, “người phát tâm bố thí, giúp đỡ, sẻ chia, và người tuỳ hỷ với việc bố thí ấy, có phước báu ngang bằng nhau. Vì sao? Vì người bố thí cúng dường thì được phước báo hiện tại và mai sau không nghèo hèn, thiếu thốn, khó khăn; còn ta thấy người khác bố thí, cúng dường, mà phát tâm tuỳ hỷ, vui theo việc làm ấy, sẽ không bị quả báo tật đố, ganh ghét. Người có tâm tật đố, ganh ghét dễ dẫn đến hận thù, làm những việc xấu ác; còn người xúi bảo người khác làm việc xấu ác, thì quả báo lại càng nặng nề hơn.

Như trường hợp của dân làng đánh cá trong câu chuyện trên, cái đói khổ là do cộng nghiệp xấu. Khi đứa bé mới đầu thai vào bà mẹ, nghiệp nhân đã chiêu cảm những quả xấu, nên cả làng bị thiếu thốn, đói khát, dẫn đến việc bà mẹ bị đuổi ra khỏi làng, người con phải thọ quả ăn mày từ trong bụng mẹ mãi đến khi chín, mười tuổi. Thật là khủng khiếp! Đó cũng chỉ vì tuỳ hỷ hay xúi bảo với việc làm xấu ác mà ra.

Do đó, khi học về giáo lý nghiệp báo, chúng ta nên cẩn thận với mọi hành vi từ thân-miệng-ý, mình chỉ tán thán và tuỳ hỷ khi thấy người khác làm việc phước thiện mà thôi; còn khi thấy ai làm việc bất thiện, mình nên tìm cách khuyên can, cả hai việc ấy đều mang lại lợi ích trong hiện tại và mai sau.

Đối với khẩu nghiệp, chúng ta phải hết sức cẩn trọng trong lời nói. Ta nên nói những lời có lợi cho mình và cho người, còn những lời nói mình cảm thấy có hại cho bản thân hay cho người thì phải dè dặt. Muốn được như vậy, chúng ta phải biết cách tu hành từ ý nghĩ khi chưa phát sinh ra lời nói. Ta nghĩ và nói theo lời Phật dạy, biết tận dụng, tranh thủ thời gian quán chiếu, suy xét, cho đến khi nào mình cảm thấy lời nói không có hại cho ai thì mình mới nói.

Ai tu được như vậy, sẽ từng bước chuyển hóa được nghiệp xấu ác huân tập từ nhiều đời, nhiều kiếp, không còn nghi ngờ gì nữa, nhà Phật gọi đó là niềm tin bất thoái chuyển. Người có niềm tin như thế sẽ càng ngày càng sống tốt hơn, nhờ trí tuệ khai phát, do đó luôn sống vì tha nhân nhiều hơn.

Trong Kinh Kim Cang, đức Phật đã nói, “phàm cái gì có tướng đều hư (giả) vọng. Hư vọng có nghĩa là không phải không có, mà là giả có (không thật có).

Thân của chúng ta có phải thật là ta hay không? Nếu thân này là thật, tại sao ai cũng sanh-già-bệnh-chết? Cái gì thật thì trước sau như một, không biến đổi, trước như thế nào thì sau như thế đó, dù trải qua thời gian vô cùng tận cũng không thay đổi. Còn thân người luôn bị già-bệnh-chết chi phối, thì làm sao nó là thật được. Vậy mà rất nhiều người trong chúng ta lầm chấp thân này là thật, là ta, là của ta.

Từ chỗ chấp thân này là thật, nên mới sinh ra chuyện vợ chồng luôn tranh cãi, bất hòa với nhau, dẫn đến ly dị, ly hôn, do không biết nhường nhịn lẫn nhau. Những điều bất hạnh ấy đến với mình cũng chỉ vì mình không hiểu biết, thiếu tu hành mà thôi.

Do nghiệp xấu gieo tạo từ trước, nên khi sanh ra trong đời này, cậu bé phải chịu quả báo làm một đứa trẻ lang thang, ăn mày đầu đường xó chợ, bữa đói bữa no, chín mười năm trời. Tuy đã vào Tăng đoàn, được xuất gia tu hành, nhưng vẫn phải chịu nghiệp quả của sự thiếu thốn. Trong lúc đi khất thực hàng ngày, cứ hễ đến lượt ngài thì hết thức ăn, hoặc người cúng dường muốn dân vật thực cho ngài thì lại thấy trong bình bát của ngài đầy ấp thức ăn, nên lại thôi, không sớt bát nữa.

Bởi do ác nghiệp gieo tạo trong quá khứ, nay khiến ngài phải trả quả báo như vậy. Cho nên, trong suốt thời gian tu hành trong Tăng đoàn, cùng đi khất thực với quý thầy, ấy thế mà ngài chưa bao giờ có một lần no đủ, mặc dù ngài đã chứng quả A La Hán.

Thương tình vị đệ tử của mình suốt cuộc đời không một bữa ăn no, Ngài Xá Lợi Phất khất thực được một bát cơm thịnh soạn, bèn để ngài dùng trước lúc nhập diệt; nhưng khi ngài vừa dùng xong, tất cả thức ăn đều bị ói ra hết. Quý vị đã thấy rõ sức mạnh của nghiệp ác chiêu cảm thế nào chưa, ngay đến cả bữa ăn cuối cùng trong đời ngài cũng không thể thọ nhận, dú đã chứng A La Hán quả.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng, hễ gieo tạo nghiệp gì thì phải thọ lãnh nghiệp quả nấy, không sai một li nào, không trốn tránh vào đâu được, cho dù đó là nghiệp riêng hay nghiệp chung.

Vì vậy, người Phật tử chân chính phải hết sức cẩn trọng giữ gìn các hành vi của thân-miệng-ý cho chu đáo, khi đã lỡ gây tạo nghiệp bất thiện rồi thì trăm kiếp, ngàn đời, quả báo ấy cũng không hề mai một, mà chỉ nằm yên chờ đến lúc hội đủ nhân duyên thì sẽ trổ ra. Lúc ấy, ta không kêu cứu ai được, mà cũng không ai có thể cứu ta được. Chỉ có người hiểu rõ đạo lý nhân quả, nghiệp báo, biết tu hành, thì mới chấp nhận mà không phàn nàn, không than van hay oán trách một ai.

Còn đối với những bậc tu hành đã vượt qua được vòng luân hồi sanh tử, khi những quả xấu trổ ra, các ngài không hề sợ sệt, không hề oán than; có khi các ngài còn khởi tâm vui vẻ vì được trả quả trong kiếp này. Những vị cao Tăng, những bậc tu hành chân chánh luôn giữ tâm an trú nơi tính biết sáng suốt của mình, không còn dấy niệm về buồn, thương, giận, ghét, nên các ngài lúc nào cũng an nhiên, tự tại.

Do đó, người Phật tử chân chính phải nên thường xuyên quán chiếu, soi sáng lại chính mình, đừng chờ đến lúc quả xấu trổ ra, rồi mới ngồi đó mà than thân, trách phận. Bồ Tát nhờ ý thức được quả khổ đau, nên đã kịp thời ngăn ngừa từ nhân, còn chúng ta chờ kết quả xấu đến thì làm sao trở tay cho kịp.

Bởi thế, phàm phu khi trả quả thì than thân, trách phận, oán trời, trách đất, đỗ thừa đủ thứ, rồi sinh ra hận thù, tìm cách trả đũa; do vậy, nhân quả vay trả, trả vay không có ngày cùng. Muốn dừng được nhân bất thiện, chúng ta phải thường xuyên nghiền ngẫm lời Phật dạy, để biết được nhân nào dẫn đến sa đoạ, khổ đau, nhân nào dẫn đến an vui, hạnh phúc, nhân nào được giác ngộ, giải thoát, để mình lựa chọn mà tu theo tâm nguyện của mình; đừng để nước tới chân mới nhảy thì làm sao kịp, hay chờ khát nước rồi mới đào giếng thì đã quá muộn màng.

Người học Phật phải biết phòng ngừa quả xấu từ nhân. Muốn được như vậy, trước nhất ta phải tin sâu Tam Bảo, cố gắng thực hành lời Phật dạy. Phật nay đã nhập diệt hơn 25 thế kỷ, nhưng giáo pháp của Ngài vẫn còn đang lưu truyền nhờ chư Tăng, Ni. Nếu không có chư Tăng, Ni hoằng truyền rộng rãi thì làm sao ta biết được điều hay dở, tốt xấu, đúng sai trong cuộc đời, để mình tu sửa, để khỏi chìm đắm, trôi lăn trong vòng sinh tử, luân hồi.

Tin sâu Tam Bảo là tin sâu vào lời dạy chân chính của Phật, không phải thần tượng vào vị thầy nào, vì thần tượng thì dễ bị sụp đổ. Điều đó dễ dẫn ta đến cống cao ngã mạn, chỉ thấy có thầy mình là tốt, là đúng, là hay, còn các vị khác đều sai, đều xấu. Đây là tai hoạ từ bệnh thần tượng cá nhân gây nên, bởi chư vị Tăng, Ni đang tu hành cũng là người bình thường, nên không sao tránh khỏi những khuyết điểm.

Biết được như vậy, chúng ta dễ dàng cảm thông cho những sai sót của quý Tăng, Ni, hay các bạn đồng tu với nhau. Khi xét thấy chư Tăng, Ni nào đầy đủ đức hạnh thì chúng ta cố gắng học theo; còn chư vị Tăng, Ni nào chưa trọn vẹn, nhiều khiếm khuyết, thì chúng ta cũng nên lấy đó làm bài học, để không vấp phải lỗi lầm. Đó là điều người Phật tử cần phải nên biết, để tránh việc khen mình, chê người, chỉ gây đau khổ cho nhau mà thôi.

Đối với người Phật tử, việc tích luỹ nghiệp rất là quan trọng, bởi chúng ta sanh ra trong đời là đã mang theo nghiệp tốt xấu lẫn lộn của nhiều đời trước. Bên cạnh tích luỹ nghiệp của quá khứ, việc tái sanh còn do lực tác động của cận tử nghiệp, cũng rất quan trọng. Cận tử nghiệp là nghiệp được tạo tác lúc sắp chết. Tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có liên quan mật thiết với nhau, nó kết thành yếu tố quyết định đưa thần thức người chết tái sanh về cõi lành hay cõi dữ.

Thời Phật còn tại thế, vua Ma Ha Nam- con của Cam Lộ Phạm Vương, là em nhà chú bác với đức Phật, ông tu tại gia, giữ năm giới, tu thập thiện, thọ bát quan trai. Một hôm, ông đến gặp đức Phật và bạch rằng, “bạch Thế Tôn, con giữ gìn năm giới, tu thập thiện, thọ bát quan trai thường xuyên như vậy, nếu chẳng may con bị chết bất đắc kỳ tử, sau khi chết, con sẽ tái sanh được chỗ tốt đẹp hay không?”

Đức Phật không trả lời mà hỏi lại ông, “như có một cây cổ thụ thân và cành nghiêng hẳn về một bên, vậy khi cưa gốc, cây đó sẽ ngã về bên nào?”

Vua Ma Ha Nam trả lời, “dạ thưa Thế Tôn, cây sẽ ngã về phía đang nghiêng”.

“Cũng vậy, bình thường nhà vua hay làm điều lành, giữ giới liên tục, không gián đoạn, khi gặp tai nạn bất thường, tuy có hơi bị khủng hoảng đôi chút, nhưng do nghiệp thiện tích luỹ quá nhiều, nên sẽ được sinh về cảnh giới an lành, nhà vua khỏi phải lo lắng, sợ hãi mà cứ yên tâm”.

Người tu hành chân chính phải biết tích luỹ nghiệp lành khi còn trẻ khoẻ, chứ không phải chờ đến tuổi già, sức yếu, rồi mới làm lành, lánh dữ, và tu hành, thì e rằng không còn kịp nữa. Tránh dữ, làm lành là phương pháp sống của người Phật tử, hễ khi có cơ hội và nhân duyên thì mình phát tâm làm ngay dù việc lớn hay nhỏ.

Cho nên, tu là phải chịu khó hành trì bền bỉ từ khi còn trẻ, ta chỉ làm một việc là kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ cho đến lời nói và hành động cho được thuần nhất, không làm tổn hại cho mình và người.

Cận tử nghiệp đối vối việc tái sinh trong đời sau rất quan trọng. Một người trong đời đã làm nhiều việc thiện lành, tốt đẹp, nhưng đến lúc sắp lâm chung lại khởi lên tâm niệm xấu ác, hay oán giận ai, thì chưa chắc được sinh về cõi an lành. Ngược lại, ai trong đời lỡ tạo một vài nghiệp ác, đến lúc sắp lâm chung mà biết khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, người ấy có thể chuyển được nghiệp xấu và sanh về cảnh giới an lành. Bởi nghiệp không cố định, nên ta có thể chuyển hoá và thay đổi chúng.

Qua câu chuyện trên, đức Phật đã chỉ ra cho ta một bài học quý báu về tích luỹ nghiệp, chúng ta phải thường xuyên huân tập việc tốt bền bỉ, lâu dài. Lúc nào, ta cũng ý thức việc làm ác sẽ gây quả xấu cho mình trong hiện tại và mai sau, nên không dám lơ là, buông lung, mà luôn cố gắng tinh cần chuyển hóa chúng khi còn trong trứng nước, tu hành như vậy ta mới có thể làm chủ tâm mình trước lúc lâm chung.

Cận tử nghiệp có thể chuyển hoá được các nghiệp xấu ác ta đã gây tạo ra từ trước. Nếu trước đây, chúng ta đã từng làm những việc xấu ác, đến lúc gần chết mình biết hồi đầu chuyển hướng, khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, nhờ tâm niệm đó, mình có thể được sanh về chỗ an vui, hạnh phúc.

Ngoài việc tích luỹ nghiệp lành, người Phật tử còn phải biết tu hạnh buông xả. Nghĩa là không chấp trước vào việc làm thiện lành của mình. Người chấp trước vào việc tốt mà mình đã làm thì dễ sanh tâm ngã mạn, lúc gặp duyên xấu không làm chủ được bản thân, hay bị người khác xúi giục làm điều xấu ác không cưỡng lại được, biết xấu mà vẫn làm, biết mà cố phạm, vì thói xấu đã được thuần thục.

Trong đời, ta thấy có người hay làm những việc xấu ác, bất thiện, bất nhân, bất nghĩa, mà họ vẫn khoẻ mạnh, giàu có, không gặp hoạn nạn, là do nhiều đời, nhiều  kiếp, họ đã gieo trồng quá nhiều nghiệp lành, tích luỹ nghiệp tốt của họ trong quá khứ còn nhiều, nên những nghiệp xấu ác họ đã gây trong đời hiện tại chưa đủ sức chi phối.

Có người thắc mắc cho rằng, tại sao có người suốt đời toàn làm điều ác, mà họ vẫn sống đầy đủ, giàu có, chẳng thiếu một thứ gì. Vậy luật nhân quả nghiệp báo có chuẩn xác và công bằng hay không? Trong kinh Phật dạy rất rõ ràng, “nếu làm thiện sẽ được quả bảo vui, làm ác thì bị quả báo khổ”.

Bởi tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đối với người sắp lâm chung. Người làm ác mà vẫn sống phây phây là do tích luỹ nghiệp thiện lành của họ quá nhiều. Phật thường nói về nhân-duyên-quả, có nhân thì phải có duyên, đủ duyên thì chiêu cảm quả báo. Nhưng nhân quả có thể thay đổi được, nếu không chúng ta tu cũng tốn công, vô ích thôi.

Tu là mục đích chuyển khổ thành vui, chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ. Như khi xưa ta chưa biết tu nên hay hút thuốc, uống rượu; nay nhờ biết tu, nên mình không uống rượu, hút thuốc nữa, vậy không phải đã chuyển là gì. Bỏ thuốc, bỏ rượu là do ta bỏ, chứ đâu có ông thần linh thượng đế nào giúp cho mình làm được điều này.

Chúng ta nuốn được phước báo tốt, sống đời hiền thiện, đạo đức, thì phải cố gắng tu trong mọi hoàn cảnh, đừng chờ đến chùa rồi mới tu. Tu như vậy là không thực tế. Một tháng chúng ta đến chùa được mấy ngày? Không lẽ không đến chùa là không tu được hay sao? Quý Phật tử hãy nên suy nghĩ chín chắn chỗ này. Tu chính là nền tảng vững chắc để xây dựng hạnh phúc gia đình và xã hội. Một giờ tu là một giờ hạnh phúc, một ngày tu là một ngày an lạc, giác ngộ, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.

Muốn được trọn vẹn đường tu, chúng ta phải thường xuyên sám hối, quyết tâm chừa bỏ lỗi lầm, phát nguyện đời đời kiếp kiếp đi theo con đường Phật đạo. Chúng ta phải phát nguyện mãnh mẽ và ý thức rằng, làm ác sẽ chịu quả báo khổ đau trong hiện tại và mai sau, nhờ vậy mình mới đủ sức vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Phát nguyện để làm mới lại chính mình và tin sâu Tam bảo, giúp chúng ta có đủ niềm tin trên bước đường tu học. Mỗi khi gặp điều bất hạnh, ta biết đó là nghiệp xấu quá khứ còn rơi rớt lại, nên không thối chí, nản lòng, mà còn cố gắng nhiều hơn để vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

               Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
               Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
               Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm,
               Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền.

    Chúng ta hãy nên bắt chước ông vua Thiền sư Phật hoàng Trần Nhân Tông, xem ngai vàng như dép rách, chẳng màng đến vinh hoa phú quý, một lòng nhất tâm tu hành, buông xả quyền cao chức trọng, để sống đời trong sạch, giải thoát.

 

(CÙNG TÁC GIẢ)

Categories: Tài Liệu Tham Khảo | Leave a comment

Quốc tế

 

Cập nhật 21/03/2013 10:01:45 AM (GMT+7)

Quốc tế

Thứ 5, 21/3/2013, 0:0 GMT+7

Con số khủng khiếp của chiến đấu cơ khủng nhất hành tinh

 

Do chương trình cắt giảm chi tiêu tự động có hiệu lực nên Bộ Quốc phòng Mỹ bị mất hơn 40 tỉ USD trong số 549 tỉ USD cho năm tài khóa này.

 

F-35 – máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 của Mỹ sản xuất

Tuy nhiên, một chương trình của Lầu Năm Góc khó có khả năng bị tác động mạnh từ việc cắt giảm này chính là dự án máy bay tiêm kích tấn công kết hợp F-35, bất chấp thực tế là chi phí cho chương trình này đắt gấp 4 lần so với bất kỳ chương trình vũ khí nào đang vận hành của Lầu Năm Góc. 

Trong khi chi phí cho F-35 vượt mức ngân sách cho phép hàng tỉ USD và chậm giao hàng nhiều năm trời, chương trình này có vẻ như đang tiến triển tốt trong thời gian gần đây.

“Chúng tôi đã có tiến triển rất lớn trong những năm qua” – Steve O’Brya, Phó Chủ tịch chương trình phát triển kinh doanh F-35 của hãng Lockheed cho hay.

Người đứng đầu chương trình này bên phía quân đội là Trung tướng Christopher Bogdan đồng tình rằng có rất nhiều tiến triển trong thời gian qua nhưng Lockheed và nhà thầu chính nữa là Pratt & Whitney vẫn còn rất nhiều việc phải làm.

Ông Bogdan cho biế thêm là Australia cũng lên kế hoạch mua them 100 chiếc F-35 nữa.

Dưới đây là những con số khổng lồ liên quan tới chiếc máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 siêu tối tân của Mỹ. Đây cũng là một trong những chương trình vũ khí chi phí khổng lồ nhất của Mỹ từ trước tới nay.

Năm 2001: công việc xây dựng chiếc máy bay bắt đầu

84 tỉ USD: số tiền đã chi cho F-35

65: đây là con số máy bay đã được lắp ráp mặc dù việc thử nghiệm các máy bay vẫn còn chưa hoàn tất.

1,5 nghìn tỉ USD: đây là tổng số tiền cho việc phát triển, xây dựng và bay thử nghiệm cũng như bảo trì toàn bộ máy bay F-35 trong vòng đời 55 năm của máy bay.

2852: đây là con số máy bay mà Lầu Năm Góc đặt hàng từ  năm 2001

81,7 triệu USD là tổng ước tính chi phí trên mỗi máy bay vào năm 2001

133.000 là con số việc làm mà chương trình F-35 hiện đang hỗ trợ.

2012 là năm được đề ra để bắt đầu sản xuất toàn tốc

15,3 triệu USD là tổng số tiền mà hãng Lockheed chi để vận động hành lang năm 2012

2019 là năm được lên kế hoạch để sản xuất đồng loạt

2443 là số lượng máy bay đang được đặt hàng.

162,5 triệu USD là ước tính hiện nay cho chi phí của mỗi máy bay

45 là số quốc gia mà hãng Lockheed và các nhà thầu phụ và nhà cung cấp cùng triển khai công việc sản xuất F-35

233 tỉ USD là ước tính tổng chi phí vào năm 2001

397 tỉ là ước tính tổng chi phí vào thời điểm hiện tại

365 là số máy bay dự kiến hoàn tất khi kết thúc đợt thử nghiệm vào năm 2018.

260.000 là số việc làm mà hãng Loockheed nói rằng chiếc máy bay này sẽ hỗ trợ khi việc sản xuất đồng loạt bắt đầu.

6,5 tỉ USD là trung bình thu nhập mà hãng Loockheed thu về từ các máy bay F-35 trong năm 2012. Hãng này kỳ vọng con số này sẽ tăng lên nữa trong những năm tới đây.

Lê Thu (theo BI)

Categories: Biển Đông | Leave a comment

Create a free website or blog at WordPress.com.