Quyển VI
Cánh Tu Hiền và Sự Ăn Ở
của Một Người Bổn-Đạo
_____________________
Lời Nói Đầu
———
Năm năm trường xa cách, cái chánh-sách áp bức tôn-giáo
gắt-gao của người Pháp làm cho tôi không được gần-gũi các
người hầu giải bài tường tận tôn-chỉ hành đạo của tôi.
Ấy không phải vì tôi cố ý muốn xa-lánh các người, song
chẳng qua vì sự bắt-buộc của kẻ cường-quyền nên tôi và các
người không được trực-tiếp cùng nhau. Tuy nhiên cũng có lắm
thiện-nam tín-nữ rất trung-thành, một lòng gìn đạo. Nhưng gần
đây có vài kẻ hiểu lầm, hành-động một vài điều không phù hợp
với tinh thần đạo-đức, trái chủ-nghĩa từ-bi bác-ái và sự cao-
thượng của giáo-pháp nhà Phật. Thế nên điều ấy làm cho quyển
sách nhỏ nầy ra đời. Vậy từ nay trở đi tôi ước mong rằng với
vài điều sơ-lược kể ra sau đây, toàn thể thiện-nam tín-nữ trong
Đạo sẽ dùng trí-tuệ mình, suy-gẫm gìn-giữ ăn ở theo quy-tắc đã
định, đặng tránh những việc đáng tiếc xãy ra, hầu giữ tròn
danh-giá của Đạo Phật. Như thế chẳng phụ công ơn của Đức
Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni đã khai sáng Đạo Phật và đã dìu-dắt
quần-sanh tầm đường giải thoát.
Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật
_____________________
Quyển 6 – Bao Gồm Những Phần Sau:
I. Những Điều Sơ Lược Cần Biết Của Kẻ Tu Hiền
II. Luận Về Tam Nghiệp
III. Luận Về Bát Chánh
IV. Cách Thờ Phượng, Hành Lễ Và Sự Ăn Ở Của Một Tín
V. Sự Cúng Lạy Của Người Cư Sĩ Tại Gia
VI. Lời Khuyên Bổn Đạo
Đồ Phật Giáo Hòa Hảo
_____________________
I. Những Điều Sơ Lược Cần Biết Của Kẻ Tu Hiền
Đạo Phật từ xưa đến nay luôn luôn phân làm hai hạng người:
HẠNG XUẤT GIA: Gồm có các nhà sư hay những ni cô đã
hoàn toàn ly khai với gia đình, quê hương, bè bạn, dựa thân vào
cửa Thiền hoặc núi non am cốc, hằng ngày chỉ chuyên lo kinh
kệ, săn sóc cảnh dà lam, trau luyện đức lành, giồi mài trí tuệ hầu
giảng giải cho bá tánh thập phương nghe để quày đầu hướng
thiện quy y Phật Pháp, không còn thiết đến việc đời. Gia đình
nhà cửa của nhà sư là cả thế gian, thân quyến nhà sư là khắp cả
Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật quả thoát kiếp luân
HẠNG TẠI GIA: Gồm tất cả đại chúng, tất cả thiện nam tín nữ
chưa đủ những điều kiện xuất gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ
với non sông tổ quốc, với gia đình, với đồng bào xã hội, nên
chưa thể làm như các nhà sư hay ni cô đặng. Tuy vậy họ cũng
sẵn sàng hoan nghinh ca tụng lý tưởng từ bi bác ái đại đồng của
nhà Phật và luật Nhân quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở tại nhà
họ thờ phượng Đức Phật, phát nguyện quy y, giữ gìn ít điều giới
luật, hằng coi kinh sách sửa tánh, răn lòng, ủng hộ các sư. Như
thế, họ cũng lần lần lên con đường giải thoát.
Đây là hạng người học Phật tu Nhân.
Bàn xét như trên, thấy rằng toàn thể trong Đạo chúng ta thuộc
hạng tại gia cư sĩ, học Phật tu Nhân vậy.
Sách xưa có câu: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên”
(muôn vạn quyển kinh của Phật, Thánh, Tiên đều dạy sự hiếu
nghĩa làm đầu). Hôm nay đã quy y đầu Phật, tu niệm tại gia, ta
hãy cố gắng vưng lời Thầy Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu nghĩa.
Đức Thầy Tây An thuở xưa thường khuyến khích các môn nhơn
đệ tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa, có bốn điều ân ta cần
phải hy sinh gắng gổ mới mong làm trọn.
1. Ân Tổ Tiên cha mẹ,
2. Ân Đất Nước,
4. Ân Đồng Bào và Nhân loại (với kẻ xuất gia thì Ân Đàn
1. ÂN TỔ TIÊN CHA MẸ: Ta sanh ra cõi đời được có hình
hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí
khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha
mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ
có tổ tiên; nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải
biết ơn tổ tiên nữa.
Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có
dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ
nên xao lãng làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm
điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta rán hết sức tìm cách
khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế, ta cần phải lo nuôi dưỡng
báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm
đau, gây sự hòa hảo trong đệ huynh, tạo hạnh phúc cho gia
đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ
được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu
cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh, thoát
Còn đền ơn tổ tiên, là đừng làm điều gì tồi tệ, điếm nhục
tông môn, nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm, gieo họa đau
thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh
đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ đường.
2. ÂN ĐẤT NƯỚC: Sanh ra, ta phải nhờ tổ tiên cha mẹ, sống
ta cũng nhờ đất nước quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn
những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng, giống
nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn phận phải bảo vệ đất
nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp. Rán nâng đỡ xứ sở quê
hương lúc nghiêng nghèo và làm cho trở nên được cường
thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ
cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta
Hãy tùy tài tùy sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như
không đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp
đỡ quê hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ xuất
đến nỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho
kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước.
Đó là ta đền ơn cho đất nước vậy.
3. ÂN TAM BẢO: Tam Bảo là gì? – Tức: Phật, Pháp, Tăng.
Con người nhờ tổ tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất
nước tạo kiếp sống cho mình, ấy về phương diện vật chất.
Về phương diện tinh thần, con người cần nhờ đến sự giúp
đỡ của Phật, Pháp, Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật
là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt
sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Thế nên Ngài
mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các
chư tăng, đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban bố khắp trần
thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn là các đại đệ tử của Đức
Phật vậy. Bởi vì đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt
quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật,
hãy tin tưởng và tín nhiệm vào sự nghiệp cứu đời của Ngài,
làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ
tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng ái của Phật đối
với chúng sanh, đã kính trọng sùng bái Ngài, đã hành động
đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp
cho nền Đạo được phát triển thêm ra, xây dựng một tòa lâu
đài Đạo hạnh vô thượng vô song roi truyền mãi mãi với hậu
Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân
hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải
thoát, dẫn dắt giùm những kẻ sa cơ, và nhứt là phải tiếp tục
khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái được
gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng
phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại,
và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.
4. ÂN ĐỒNG BÀO VÀ NHÂN LOẠI: Con người vừa mở
mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của
những kẻ ở xung quanh và cái niên kỷ càng lớn thêm bao
nhiêu, sự nhờ nhõi càng tuần tự thêm nhiều chừng nấy.
Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ
mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong vũ.
Vui sướng, ta đồng hưởng với họ. Hoạn nạn, họ cùng chịu
Họ và ta cũng một màu da, cũng một thứ tiếng nói. Ta và
họ hợp nhau thì thành lại làm một: ấy Quốc gia đó. Họ là
ai? Tức là những người ta thường gọi bằng đồng bào vậy.
Đồng bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi
giống rọi truyền, cùng có những trang lịch sử vẻ vang oanh
liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy biến, cùng
chung phận sự đào tạo một tương lai rực rỡ trong bước tiền
đồ của giang san đất nước. Đồng bào ta và ta có một liên
quan mật thiết không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau và
chẳng khi nào có ta mà không có đồng bào, hay có đồng
bào mà không có ta. Thế nên ta phải rán giúp đỡ họ hầu
đền đáp cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.
Chẳng những thế thôi, ngoài đồng bào ta còn có thế giới,
người đang cặm cụi cần lao cung cấp những điều nhu cầu
cần thiết. Họ là nhân loại, là những người đang sanh sống
với chúng ta trên quả địa cầu. Nếu không có nhân loại, thử
hỏi dân tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật liệu để dùng
chăng? Ta có thể tự túc một cách đầy đủ chăng? Nói tóm
lại, ta có thể lẻ loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt
hàn với những lúc ốm đau nguy biến, giữ vững cuộc sống
còn này chăng? Hẳn không vậy. Thế nên dân tộc ta phải
nhờ đến Nhân loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải
biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình
và đồng chủng mình.
Vả lại, cái tình từ bi bác ái của Đức Phật mà ta đã nhận
thức, rất thâm huyền quảng hượt. Cái tình ấy nó không bến
không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng
tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các từng
lớp đẳng cấp xã hội mà chỉ đặt vào một: Nhân loại Chúng
Thế, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì
đồng bào mình gây ra tai hại cho các dân tộc khác. Trái lại,
hãy đặt vào họ một tư tưởng nhân hòa, một tinh thần hỉ xả
và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn
Đối với những kẻ xuất gia quy y đầu Phật, phụ vào những
ân huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực tiếp chịu ân
các đàn na thí chủ, nghĩa là những thiện nam tín nữ có hảo
tâm cung cấp những vật dụng cần thiết cho họ. Họ nhờ đến
hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc men đặng sanh sống, rốt
lại họ phải nhờ đến sự nuôi dưỡng hoàn toàn của những kẻ
Với quần sanh, họ mang cái ân rất nặng, cho nên họ phải
dìu dắt sanh linh đi tầm Chân lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu
II. Luận Về Tam Nghiệp
Sanh ra ở đời, con người dầu muốn hay dầu không, cũng phải
chịu dưới sự chi phối của định luật thiên nhiên. Định luật ấy
gồm vào một chữ Đạo, đạo của con người kêu bằng “Đạo Nhân”
và nó là con đường đi trúng thì sống, bước trật tất chết.
Muốn làm tròn Nhân Đạo, phải giữ vẹn Tứ Ân. Nhưng trước
hết hãy tránh Tam Nghiệp và chừa Thập Ác, cũng như muốn
làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ.
Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây:
– Thân nghiệp: (tội lỗi do xác thân gây nên);
– Khẩu nghiệp: (tội lỗi do miệng lưỡi gây nên);
– Ý nghiệp: (tội lỗi do ý tưởng gây nên).
Ba nghiệp chướng ấy khiến con người phạm mười điều ác kể ra
Thân-nghiệp sanh 3 điều ác:
1. Sát-sanh
2. Đạo-tặc
3. Tà-dâm
Khẩu-nghiệp sanh 4 điều ác:
Ý-nghiệp sanh 3 điều ác:
1. Lưỡng-thiệt
2. Ỷ-ngôn
3. Ác-khẩu
4. Vọng-ngữ
1. Tham-lam
1. SÁT SANH: Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền
lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải chung chạ với thế
giới người hung tàn bạo ngược, tánh nết liền ô nhiễm
những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc ác dữ dằn.
Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi danh, vì
quyền thế, vì thù hềm, vì háo thắng… nghĩa là họ giết nhau
vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một
đẳng cấp xã hội, của một quốc gia; họ muốn tiêu diệt tất cả
nhân loại, không một ai có quyền sanh sống cùng họ cả.
Tại trào nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh
vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc
tương tàn tương sát. Ngoài lê thứ thì con giết mẹ cha, tớ
hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé.
Những cuộc tương tàn rất thường xảy ra trong nhân loại
không ngoài các lý do đã kể trên. Đó là người đối với
Người đối với thú cầm, sanh vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa:
họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị đoan mê tín, vì sự vui
thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh
vật (gà, vịt, heo… ) để nuôi thân sống, nhưng chẳng khá
dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con
người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa
đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm
mình thôi và không nên hoang phí hy sinh nó, nếu sự hy
sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá
giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi
mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời, Đất có thể sát hại
sanh vật cúng tế cầu cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy
rất sai lầm huyễn hoặc, vì đứng vào bực siêu hình cao cả
như chư vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai
chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm,
con người không chịu thuốc thang, khấn vái Phật Trời cầu
cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng
Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên nhân
các sự họa hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến
xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn năn
chừa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các thú vật
đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền bồi
các tội ác trước được.
Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui
thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt
cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ
nhắm trong những khi cao hứng quên hẳn rằng sanh vật
cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống
còn như nhân loại vậy.
Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng, và
nhứt là đối với các gia súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo…
chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các
việc sanh hoạt hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát sanh
vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt
2. ĐẠO TẶC: Câu: “Bần cùng sanh đạo tặc” cần phải là một
câu chữa mình của bọn bất lương vô đạo. Những kẻ này
ngày vẩn vơ đầu đường xó chợ, tối kiếm chỗ khoét vách
đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc.
Lớp người cặn bã của xã hội này, sống ngoài vòng pháp
luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an ninh của dân chúng,
chuyên lo giết người cướp của đoạt giựt tài sản của lương
dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ hôi, bao
nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu
làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong
những gia đình cần lao kiệm tiết, là nguyên nhân của sự
nghèo sự khó, họ phá hoại hạnh phúc của con người.
Cơ hàn đói khó, thay vì phải làm lụng như những kẻ khác
mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi này rồi đến cái lỗi khác,
phạm tội này rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện
bất lành cho nhân chủng. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt,
những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân
xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành vi đen
tối, nếu họ không chịu ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ
thói vô nghì, lánh điều phi nghĩa.
3. TÀ DÂM: “Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu, ngàn
việc dữ tà dâm đứng trước”. Sách sử thường bảo như thế.
Lần giở xem sử sách, thời thấy tội ác ấy lan diễn ra khắp
nơi, từ trào nội cho đến thứ dân, từ trong gia đình đến kẻ xa
người lạ, nó là mầm gây ra biết bao thảm trạng! Gương
của vua Tề với vợ Thôi Tử, An Lộc Sơn với Dương Quý
Phi há chẳng còn lưu liên hậu thế. Giàu ỷ của hiếp dâm kẻ
khó, quan ỷ quyền cường bức đám dân hèn. Gian phu, dâm
phụ từ xưa đến nay luôn luôn đều có.
Muốn tránh sự bại hoại nền luân lý nước nhà, muốn giữ gìn
tiếng tăm của gia thế, phải đừng để dục tình lôi cuốn, bắt
chước gương xưa trau giồi lòng hiếu trung trinh tiết.
4. LƯỠNG THIỆT: Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây
ra, ác lưỡng thiệt này đã làm duyên cớ cho những sự hiểu
lầm nhau, những sự cãi vã gây gổ sanh oán sanh thù. Sự
phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi
đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự
đoàn kết tình thân yêu giữa nhân loại. Nó cũng là nguồn
cội của bao nhiêu bất hòa, hiềm khích.
Để giải trừ những tai vạ ấy, phải giữ cho lời nói mình được
thành thật, chánh đáng; được vậy trong hương đảng mới
bớt rầy rà, ngoài xã hội không điều xích mích, và mình
cũng không còn chịu ác cảm, tránh sự miệt khinh của kẻ
5. Ỷ NGÔN: Nói đến tội ác nầy tức là nói đến những vụ chủ
ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chưởi dân ngu.
Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài xỉ người nghèo, kẻ xảo
quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học thức
ỷ sự khôn ngoan dùng lời nói hạ nhục người dốt nát.
Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ
dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng
họ bạc phước vô phần nên phải chịu lụy mình vậy. Nếu họ
có lỗi lầm hãy dạy dỗ họ, dùng những cam ngôn mỹ từ,
những lời trang nghiêm êm dịu chỉ bảo, không khá bao
biếm mà mang điều tội lỗi.
6. ÁC KHẨU: Những tiếng thề thốt lỗ mãng, chưởi mắng tục
tằn làm ra tội này; con chưởi mẹ mắng cha không kể luân
thường thảo hiếu; mạnh bạo hăm he đánh giết những kẻ
yếu hèn, hiếp đáp xóm chòm cô bác. Mở miệng ra chưởi
gió mắng mây, trù rủa gia đình, không kiêng Thần Thánh.
Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long cung, làm cho
tội lỗi càng thêm chồng chập.
Hãy bỏ những tiếng tục tằn thô lỗ làm cho đời sống được
êm dịu thanh bay hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ độ, với
gia đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời
nói mình phải đoan trang nghiêm chỉnh. Đối với con cháu
trong nhà không nên nói những điều ác đức, phải dùng lời
nói dịu dàng hiền hậu dạy dỗ chúng.
7. VỌNG NGỮ: Thêm thừa huyễn hoặc, có nói không,
không nói có, ác vọng ngữ đã làm nguyên nhân cho những
sự bất công của nhân loại. Thương người nào kiếm cách
bào chữa giấu giếm sự quấy và thêu thùa sự tốt ra; ghét ai
đặt điều nói xấu và che đậy các điều phải của họ. Khoe
khoang tự đắc, xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm
cho thiên hạ khinh khi miệt thị.
Muốn tránh những điều khiến cho tư cách nhân quần phải
bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân chánh, bỏ lối láo
xược trớ trêu. Chẳng nên tráo chác với người, bỏ tiếng xảo
ngôn và phải dùng lời chơn chất.
8. THAM LAM: Tánh tham lam đã làm cho loài người phải
chịu bao nhiêu thảm khổ: chiến tranh, cướp bóc, giết
người… Tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham
quyền, tham thế… Những sự ấy đã xô đẩy con người vào
chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác liệt, gây nên những
thảm họa tầy trời. Những tấn tuồng giặc giã cướp của sát
nhơn, những vụ hối lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã
làm cho nhân sanh điêu linh trong vòng tai nạn khốc hại.
Cái tham ấy cũng đã làm cho con người đau buồn hận khổ,
phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự sát chỉ vì sự
ham muốn không được thực hiện; người ta quyên sinh vì
tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận… Những cuộc cấu xé lẫn
nhau, những vụ nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn,
những điều hung hăng bạo ác cũng do sự tham lam mà ra
cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của
mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sự khổ. Vả
lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta
xài, không ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt
của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên hạ, đời ta còn,
nó còn; đời ta mất, nó mất. Gương Thạch Sùng, Vương
Khải há không để lại cho ta một bài học đích đáng lắm ru?
Thế nên hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình,
hãy dẹp lòng vị kỷ tham lam, lo vun trồng phước đức, bố
thí kẻ nghèo hèn, rán công phu sám hối để có thể yên vui
nơi miền Cực Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần này.
9. SÂN NỘ: Tánh nóng nảy thường xúi con người làm những
chuyện bất công sái phép, chém giết oán thù nhau. Kẻ
thắng kiêu hãnh, người bại hổ ngươi, nên sự hềm thù càng
lan rộng. “Giận mất khôn”, cơn giận làm cho con người
cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ dằn bạo tợn, chẳng còn
nghĩ đến việc công bình, lẽ phải trái.
Diệt được nó, tâm ta được thảnh thơi, trí ta được thong thả.
Hãy mở lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm lỗi. Hãy nhẫn
nhịn và chẳng nên cãi cọ, tranh luận hơn thua làm cho nảy
sanh ra những điều hềm khích.
10. MÊ SI: Tội ác này do sự thiếu óc phán đoán, thiếu sự
nghĩ suy mà ra; vì vậy con người ít hay phân biệt được lẽ
phải trái, bo bo giữ thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn
nhận chân lý. Suốt cả đời ngu muội, chỉ biết mê man theo
những vật nhỏ nhen, mau tan, mau rã, chỉ biết tin bướng
làm càn, không tìm hiểu con đường giải thoát.
Hãy xóa bỏ những điều mê tín, qui thuận theo tinh thần đạo
đức, lánh chốn mê lầm, tỉnh cơn mộng huyễn, phá tan màn
vô minh che mờ tâm trí, lần bước trên con đường đạo hạnh,
đi đến chỗ Bất diệt, Bất sanh.
III. Luận Về Bát Chánh
Trừ xong ba nghiệp chướng, hãy làm theo tám điều chánh và sau
khi diệt được thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra: như
thế ta đã đi thêm được một bước trên con đường Đạo hạnh.
Những sự tấn bộ ấy không có nghĩa là đạt được mục đích. Thế
nên, cần phải hành luôn Đạo Bát Chánh tiếp theo, vì đó là quyển
kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ, tấn triển
Bát Chánh gồm có:
1. Chánh kiến
2. Chánh tư duy
3. Chánh nghiệp
4. Chánh tin tấn
5. Chánh mạng
6. Chánh ngữ
7. Chánh niệm
8. Chánh định.
1. CHÁNH KIẾN: Chánh: đúng sự thật. Kiến: thấy, xem
Chánh kiến: dòm thấy, xem đúng theo sự thật.
Phàm con người thường hay bị bản ngã lôi cuốn trí mờ ám
làm cho sai chạy ít nhiều sự thật. Khi vì thiếu sự sáng suốt,
khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết
đường ngay nẻo thẳng nên sự phán đoán không công bình
chánh đáng làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế mục
Chánh Kiến dạy ta phải đem hết trí năng truy cứu các sự
rắc rối, cẩn thận xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê
đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự
quan sát cực điểm, cách xét đoán tận tường, tránh cho ta
những tà kiến (sự xem xét lầm lạc) sai chạy, khiến ta dẹp
bản ngã đã làm cho trí tuệ mịt mờ u ám, giúp cho ta hiểu
biết rõ ràng, minh bạch, cách phán đoán được ngay thẳng
Chẳng thế, nó còn giúp cho ta hiểu biết các điều tục lụy
trong trần, biết được lẽ nhiệm mầu tôn giáo khiến ta xua
đuổi các điều tà mị, bỏ các sự say mê, trở về với đạo lý,
thoát đọa hồng trần. Nó tránh cho ta tất cả những sự giả
dối và nhờ thế, nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo.
2. CHÁNH TƯ DUY: Tu tưởng chân chánh. Sanh ở trong
trần con người thường hay bị các thị dục cám dỗ: lợi danh,
quyền tước, nghĩa vợ tình chồng… cái tư tưởng đã rù quến
tâm trí mãi mãi quay cuồng vào những sự ấy, không thế
nào thoát ly ra được. Ấy về phần tà.
Phần chánh dạy rằng: tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh,
giữ tư tưởng cho thanh cao, trí rán tìm cái Chân lý, Chân lý
ấy là cái Đạo của mình đối với nhân loại, của mình đối với
Trời Phật, của mình đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư tưởng
mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh linh trong
vòng trầm luân oan nghiệt. Hãy tin tưởng Phật Trời và cầu
nguyện đấng Thiêng liêng ban bố phước lành cho nhân
chúng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách
lạc Đạo an bần, xả thân tu tỉnh.
3. CHÁNH NGHIỆP: Việc làm chánh đáng ngay thẳng.
Đối với kẻ xuất gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền
nhập định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc
kinh viết sách, những lúc công quả cho nhà Thiền, chẳng
có làm việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả.
Những kẻ tại gia cư sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh nhai,
mưu cuộc sống còn; kẻ buôn tảo bán tần, người việc này
việc nọ, tóm lại cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu
đời sống của họ có bị sự sinh nhai chi phối, song cái chi
phối ấy khác hẳn với kẻ gian tà đạo tặc, chẳng có làm việc
gì xảo trá bất nhân. Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ
cũng nguyện bỏ những nghề nghiệp gây tai hại cho con
người: nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay
Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn
hàng, song tại có họ làm các nghề nghiệp ấy, con người
mới bị hư hỏng, trụy lạc, hoang đàng, trà đình tửu điếm…
Họ là đồng lõa mà phạm nhân là những kẻ nghiện ngập say
Thế nên mục Chánh Nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề
Kẻ tại gia cư sĩ cũng chẳng sát hại vô cớ các sanh vật, hoặc
không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội
4. CHÁNH TIN TẤN: Tín ngưỡng chân chánh và lướt tới.
Phái vô thần luận thường cho rằng thân xác tức con người.
Thân còn tức người còn, thân mất là người mất. Không có
Thánh, Thần, Trời, Phật; không quả báo luân hồi; cũng
chẳng có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con
người, sống là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên
biết bao nhiêu mánh khóe gian hùng, bao nhiêu ngón điêu
ngoa xảo trá, bao nhiêu tàn bạo ngược ngang đều được đem
Vì vậy, mục Chánh Tin Tấn này khuyên hãy rán giữ đức tin
cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho
có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín ngưỡng Phật
Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thể lôi kéo
được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu vớt
quần sanh thoát nơi khổ hải của Đức Thế Tôn, phải nhớ
rằng sanh linh đang chìm đắm trong bể hồng trần, rằng
ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ thì ta
cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn phận giác ngộ
trần gian, bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt. Muốn thế
trước hết phải tìm phương tự giác, nhắm cảnh Niết Bàn tấn
tới; quyết chí tu thân đắc thành Đạo quả hầu dìu dắt bá tánh
thập phương xa miền tục lụy. Người bỏ hết các sự rầu
buồn, các điều tà vạy, dẹp lục căn lục trần, và rán làm cho
tinh thần được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tánh cho
thiện mỹ: yên tịnh, hỉ lạc, nghiêm tranh, quyết gắng công
phu, một lòng bước tới Niết Bàn đặng quyết có tế độ chúng
sanh thoát khỏi luân hồi quả báo.
5. CHÁNH MẠNG: Sanh mạng chân chánh, trong sạch.
Ở đời, người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quí
trọng săn sóc nó. Ấy cũng do lục căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay,
mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự
sung sướng, ý ưa chức phận cao.
Người ta tìm đủ phương thế bổ dưỡng thân xác mình, làm
cho trí tuệ càng ngày càng thêm mờ ám, ngu đần, không
còn lo lắng đến sự tiêu diệt. Thế nên, hãy xa lánh những
điều làm tinh thần bị đen tối; bỏ hết đài các xa hoa, thân
mình tự chủ để tìm chỗ bất diệt bất sanh; thiền định đặt làm
thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập Liên hoa, siêu sanh
vào cõi Niết Bàn.
6. CHÁNH NGỮ: Lời nói chơn thật.
Lục căn làm cho con người nhiễm lục trần.
Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều
ham hố là nguồn cội các tội lỗi. Trong những tội lỗi ấy,
cũng có nghiệp chướng của miệng lưỡi: lưỡng thiệt (làm
cho thiên hạ bất hòa nhau); ỷ ngôn (lời chưởi mắng kẻ dưới
tay); ác khẩu (tiếng độc ác tục tằn, chưởi rủa Thần Thánh);
vọng ngữ (nói láo, nói huyễn hoặc).
Hãy tập lời nói mình cho chân chánh, đúng với sự thật; hãy
bỏ hết những xảo ngôn tráo chác, những tiếng thô lỗ cộc
cằn, phàm những khi bàn luận việc chi, phải nói lời tỏ
tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói phải cho
hiền lương đức hạnh, và những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ
khác làm theo lẽ phải đều có ích lợi cho chúng sanh và đều
hạp với tinh thần đạo đức.
7. CHÁNH NIỆM: Ghi nhớ sự chân chánh.
Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không
cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương
cũng tưởng, ghét cũng tưởng. Thất tình lục dục bắt buộc
con người phải phí biết bao nhiêu tâm cơ, bao nhiêu trí não
phụng sự nó. Danh lợi, cảm tình, uy quyền, phú quí… được
hằng ngày ghi nhớ. Vì thế con người mãi mãi lăn lộn trong
sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử.
Để thoát chỗ luân hồi bỏ cuộc đời lầm than hoạn họa, hãy
rán tưởng niệm phương pháp hành đạo, bỏ các điều phù
phiếm, ghi nhớ công lao Đức Phật đối với quần sanh, bia
tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác thân
do tứ đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó
cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được các sự xúc
động, các mối dục tình, tránh điều khổ lụy do nó gây nên.
8. CHÁNH ĐỊNH: Suy gẫm chân chánh.
Con người thường hay có những ý định làm cho mình được
sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung sướng thêm
lên… nghĩa là những ý định hoàn toàn nhỏ-nhen thấp thỏi.
Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác,
thân thế lạc luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió,
nước bọt, mây bèo. Những cái Sanh, cái Bịnh, cái Lão, cái
Tử được đặt lên cuộc đời của người này rồi đến người
khác… rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả nhân loại
không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống cuồng tâm
trí theo bã lợi danh, mùi phú quí, đi theo những vặt vụn tiểu
Họ không chịu hiểu rằng, ngoài kiếp phù du của trần thế, có
cái gì không di không dịch, vĩnh viễn trường tồn. Nếu lấy
sự Thiền định phá tan màn u minh che phủ, thì thấy rằng ở
cảnh ấy con người sẽ hết buồn, hết khổ, hết quả báo luân
hồi. Và khi ta dùng sự Chánh Định dẹp bỏ hết các sự phiền
não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị dục lôi kéo vào
những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như
trăng rằm, một màu sáng suốt không nhiễm ô cảnh ngoại,
dứt tuyệt hết phàm trần, lần bước đi đến cõi Giải thoát.
IV. Cách Thờ Phượng, Hành Lễ Và Sự Ăn Ở Của
Một Tín Đồ Phật Giáo Hòa Hảo
Từ trước đến nay, các chùa chiền đã tạo quá nhiều hình
tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng Từ Bi mới làm ra thờ
phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi dụng để thủ lợi. Bây
giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm thế, chúng ta
không cố ý hủy báng sự phượng thờ của các chùa chiền.
Cách thờ phượng tùy theo điều kiện của các sư mà chúng ta
cũng có thể sùng ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư sĩ ở nhà
không nên tạo thêm nữa; nên thờ đơn giản cho lòng tin
tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào sự hào nhoáng bề ngoài.
Từ trước chúng ta thờ trần điều là di tích của Đức Phật
Thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần
điều tự xưng là cùng tông phái với chúng ta, làm sái phép,
sái với tôn chỉ của Đức Phật, nên toàn thể trong Đạo đổi lại
màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để
biểu hiệu cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết
hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng
cho sự hòa hiệp của nhân loại không phân biệt chủng tộc và
cá nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ phượng để
tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật.
Nếu trong nhà chật, nội bàn Thông Thiên với một lư hương
không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa
tánh hơn là do sự lễ bái ở ngoài. Còn người nào có cốt Phật
trong nhà để vậy cũng đặng. Hình tượng bằng giấy không
nên chừa lại và phải đốt đi. Kẻ nào phải ở chung đậu với
người khác không có tu hiền hay không cùng một Đạo với
mình, hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ phượng thờ,
thì đến khi cúng kiếng chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm
Về cách cúng Phật, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và
nhang thôi. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông
hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang dùng đặng báng
mùi uế trược. Ngoài ra chẳng nên cúng một món gì khác
cả. Bàn thờ ông bà cúng món chi cũng đặng.
Ngoài sự thờ Phật, Tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những anh
hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà
mình không rõ căn tích.
Chỉ thờ lạy đức Phật, Tổ tiên, ông bà cha mẹ lúc còn sống
và các vị anh hùng cứu quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ
hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy,
Tất cả các hành động trong Đạo hay ngoài đời, trước khi
làm điều gì phải tính toán một cách cẩn thận, đừng làm
chuyện ngông cuồng vô ý thức. Một đừng ỷ lại vào kẻ
mạnh, hai đừng ỷ lại vào sự cứu vớt của Thần Thánh, ba
đừng ỷ lại sự binh vực của Thầy mình. Luôn luôn, lúc nào
cũng phải nhớ câu Nhơn Quả của Phật dạy, nếu Nhơn toàn
thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy. Kẻ nào
hành động ngông cuồng không suy xét cẩn thận để đến đỗi
thất bại đem đến sự khó khăn, khổ não, rồi trách cứ kẻ
mạnh sao không cứu mình, Thầy sao không giúp mình,
Trời Phật sao không độ mình, thì sự lầm lạc ấy rất đáng
Mỗi người hãy nên lấy trí thông minh nhận xét đạo lý hay
lời nói của Thầy mình, chớ đừng lấy đức tin thọ lãnh những
lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường tận. Như thế,
mình mới có thể tấn hóa trên con đường đạo đức.
Những điều sơ lược giải thích trên đây mong rằng toàn thể
trong Đạo suy gẫm kỹ càng và thực hiện để bài trừ sự mê
tín ngông cuồng của thiểu số người trong Đạo, làm cho tư
tưởng thiện hòa của Phật Đạo được phát triển mau chóng.
Lúc ông bà cha mẹ từ trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ
theo cổ lệ, chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây:
Bây giờ chúng ta đã quy y đầu Phật thì phải do sự thành
tâm cầu nguyện, và đem sức khấn vái của anh em trong
Đạo cầu nguyện cho vong linh người chết được siêu sinh
nơi cõi thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông,
đốt giấy tiền vàng bạc xá phướn lầu kho, vì đó là chuyện
tốn tiền vô ích, bởi vì ta nên nhận định rằng xác thịt là hư
hoại, thì trong lúc chết chỉ nên đem chôn cất cho kín đáo,
đừng để hôi thúi có hại cho người sống, như thế là đủ rồi.
Còn hiếu sự do hồi còn sanh tiền và do sự tu hành, sự thành
tâm cầu nguyện chớ không phải có tiền rước người khác
cầu nguyện mà đạt được hiếu thuận nhơn nghĩa. Chỉ vọng
bàn giữa nhà hay giữa trời mà cầu nguyện, rồi im lặng đi
Về việc cúng kiến ông bà cha mẹ, có chi cúng nấy, trong
những ngày kỷ niệm theo như tục lệ. Còn về việc đãi đằng
hương đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giản tiện, ít
4. CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT
Mỗi người đứng trước bàn Phật niệm “Nam-Mô Bổn-Sư
Thích-Ca Mâu-Ni Phật” (ba lần), và “Nam -Mô A-Di-Đà
Vái: “Phật-Tổ, Phật-Thầy, nay mình thành tâm cầu nguyện
cho tên…. (tên người chết), nhờ ơn Đức Phật từ-bi cứu-độ
vong-linh được thoát chốn mê-đồ, vãng-sanh miền Cực-
Trong lúc ở nhà hay trong lúc đưa đám tang gì cũng vậy,
nếu có tổ chức sắp hàng chắp tay niệm: “Nam-mô Tây-
phương Cực lạc thế-giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập
nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ
đại-bi tiếp dẫn vong linh A-Di-Đà Phật” (nếu người chết là
nhà sư thì câu chót đọc: “Tiếp dẫn Đạo sư A-Di-Đà Phật”.
NÊN LƯU Ý: Tang-gia đừng nên khóc-lóc làm trở-ngại sự
siêu-thoát anh-linh của người chết.
Bổn phận cha mẹ phải chọn lựa đôi bạn cho con một cách
xứng đáng bằng sự quan sát tường tận về đức tánh đôi trai
gái. Không nên ép uổng con mình quá đáng, vì như thế
làm cho khốn khổ nó về sau, nhưng cũng không nên để
chúng quá tự do mà sự thiếu kinh nghiệm làm cho đời
chúng phải hư hỏng.
Nên bỏ tục lệ thách giá đòi tiền và đòi lễ vật. Thông gia hai
bên không nên làm khó cho nhau. Cũng chẳng nên bày ra
tiệc, lễ linh đình tốn kém nhiều tiền, làm cho trở nên nghèo
6. NHỮNG ĐIỀU ĐƯỢC TRÁNH HẲN HOẶC ĐƯỢC
CHÂM CHẾ HOẶC NÊN LÀM
A. UỐNG RƯỢU: Phải cữ tuyệt. Nhưng khi có tiệc lễ với
người ngoài và không phải nhằm ngày chay lạt, có thể
dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng có tỏ sự chia rẽ
với kẻ ngoại Đạo. Nếu say sưa sẽ phải tội lỗi.
B. THUỐC PHIỆN: Phải cữ tuyệt, không được hút một
điếu nào hết. Những kẻ hút, muốn vào Đạo phải bỏ hút
rồi mới được nhìn nhận. Trừ ra những người đau mà
thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị
thuốc khác mới có thể châm chế đặng.
C. CỜ BẠC: Phải cữ tuyệt. Những kẻ cờ bạc muốn vào
Đạo phải thệ nguyện bỏ cờ bạc rồi mới được nhìn nhận.
Về sự này, chẳng có cuộc vui nào có thể châm chế đặng.
D. ĐỐI ĐÃI CÁC TĂNG SƯ: Tất cả bổn đạo nên cung
kính các tăng sư tu hành chân chánh. Nếu các ông ấy có
dạy điều chánh lý, phải nghe lời. Đối với những hạng tu
hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy
đám…) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con
đường chân chánh của Đạo Phật. Nếu các ông vẫn tiếp
tục làm điều tà mị, mình phải bài trừ triệt để và giảng
giải cho quần chúng cùng những tín đồ nhà Phật hiểu
đặng xa lánh họ.
E. ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN: Những ngày vía của các Đức
Phật, ngày rằm hay ba mươi, mình muốn đi chùa cũng
tốt, đặng lễ Phật, dưng hoa, không có cấm. Nếu chùa
nào nghèo, hư, rách, mà mình giúp đỡ được càng tốt (có
điều mình không nên mua sắm hình tượng cho nhiều).
Khi đến chùa cũng phải tôn trọng sự thờ phượng trong
chùa, không nên hủy báng.
F. ĐỐI VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHÂN
SANH: Đối với những người theo tôn giáo khác, không
nên động chạm đến cách thức tu hành của họ. Nhứt là
không ỷ đông hiếp đáp hoặc nói xấu người ta. Nếu họ có
làm dữ với mình, thì mình cũng chẳng được phép vì sự
dữ của họ mà trả thù, và phải luôn luôn làm lành với họ.
Mình phải hoài hoài làm phải với những kẻ ấy, dầu họ có
làm quấy với mình cũng mặc và phải nhẫn nhịn họ.
Đối với nhân sanh, bao giờ cũng phải hòa hợp với họ, và
làm cho đôi đàng có thiện cảm với nhau. Phải biết
thương xót đến họ và nếu khi nào họ cần dùng, phải rán
sức giúp đỡ họ.
G. ĐỂ TÓC: Tất cả bổn đạo nên biết rằng Thầy không có
buộc để tóc, vì đó thuộc về phong tục chớ chẳng phải về
tôn giáo; nhưng sở dĩ Thầy để tóc là muốn giữ kỷ niệm
cái phong tục cổ của Tổ Tiên và tỏ cho thiên hạ biết
Thầy không chịu ảnh hưởng cái đời văn minh cặn bã của
phương Tây. Thấy vậy, nhiều người trong bổn đạo yêu
mến Thầy liền bắt chước, vì thế số đông người hiểu lầm
rằng để tóc là tu. Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc, và tu
không phải là để tóc, để tóc không phải là tu. Nếu để tóc
mà không chịu trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ
tu hành. Từ rày trở đi đã thoát được ách người Pháp và
tùy theo phong trào tiến hóa của nước nhà, Thầy cho
phép bổn đạo tự do cải cách hầu hòa hợp với lương dân
cùng tôn giáo khác.
H. SỰ HỌC: Sự học hành không làm trở ngại cho đạo đức.
Trái lại nhờ nó mình biết được rõ ràng giáo lý cao siêu
của tôn giáo. Nó tránh cho mình những sự lạc lầm, bỏ
các điều dị đoan mê tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ các
điều huyễn hoặc, không bàn bạc những chuyện xa vời
(như tiên đoán thiên cơ chẳng hạn…).
Vậy hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ) và hãy cho
con cháu mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của
chúng thêm rộng rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa học
không cản trở sự tu hành và nó giúp mình nghiên cứu
Phật Đạo một cách rành rẽ.
I. THỂ DỤC: Người trong bổn đạo nam nữ bất luận, phải
giữ gìn thân thể cho khỏe mạnh. Như thế nên luyện tập
những môn thể dục nào hợp với sức khỏe, nếu mình
muốn, bởi vì xác thịt có khỏe mạnh tinh thần mới sáng
suốt, như vậy mình mới có thể làm sự đạo nghĩa một
J. ĂN Ở: Kẻ tu hành ăn uống phải có điều độ. Tránh
những món ngon sống nấu toàn đồ độc cho cơ thể ăn vào
Phải giữ gìn thân thể sạch sẽ và từ nhà cửa cho đến chỗ
ăn, chỗ nằm, phải biết trọng vệ sinh. Bỏ những thói
quen ăn ở dơ bẩn, vì xác thịt dơ dáy thì tinh thần không
thể nào mở mang được, và vì Thần Thánh chỉ gần những
kẻ trong sạch; nên nếu ai muốn được tiếp-độ phải trong
sạch vừa tinh-thần lẫn vật-chất.
K. CÁCH LÀM ĂN: Cách làm ăn phải y như mục Bát
– Bỏ những sự bất chánh: lường cân, tráo đấu, buôn lậu,
đầu cơ, buôn rượu, bán thuốc phiện…
– Làm những nghề lương thiện, không có lường gạt ai,
bỏ những thói gian xảo.
7. ĐIỀU KIỆN VÀO ĐẠO
Người nào muốn quy y phải có hai người bổn đạo cũ, có
đức hạnh tiến cử và bảo lãnh, đến Ban Trị Sự trong làng
cho người làm đầu biết và người làm đầu phải đọc hết thể
lệ về sự tu hành cho người quy y nghe, hỏi coi có bằng lòng
quy y như lời nguyện dạy và răn cấm trong Đạo chăng.
Nếu họ bằng lòng, biểu họ về nhà cho ông bà, cha mẹ biết,
hoặc nguyện trước bàn thờ ông bà, tổ tiên rằng: Ngày…
tháng… con chịu quy y theo Đạo. Sau đó, người làm đầu
(Hội trưởng) cho cuốn sách nhỏ này. Chỗ nào không có
Ban Trị Sự, hai người bổn đạo cũ phải dìu dắt người mới,
rồi sau sẽ dẫn đến Ban Trị Sự gần đó, không bắt buộc thề
thốt chi hết, vì người muốn tu do nơi sự phát nguyện của
mình thôi. Khi nào mình không muốn giữ Đạo, mình phải
cho người tiến cử hay đặng bôi tên mình ra. Không người
nào được phép xưng mình là người trong Đạo mà lại không
giữ luật. Kẻ nào làm trái với luật lệ trong sự đạo đức dầu
không xin thôi Đạo hay là chưa bị bôi tên cũng bị trách
nhiệm việc làm của họ và bị coi như người ngoại Đạo.
Nên nhớ rằng: Đức Phật sẽ dìu dắt và ủng hộ những kẻ nào
làm ăn chơn thật, hiền lành, đúng theo giáo lý của Ngài;
chớ không bao giờ Ngài lại ủng hộ những kẻ gian tà xảo
quyệt, làm các việc hung ác ngông cuồng trái những lời mà
V. Sự Cúng Lạy Của Người Cư Sĩ Tại Gia
BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ ÔNG BÀ
– Cầm hương xá 3 xá, quì xuống, chắp tay đưa lên trán
Cúi kính dưng hương trước Cửu-Huyền,
Cầu trên Thất-Tổ chứng lòng thiềng.
Nay con tỉnh-ngộ quy-y Phật,
Chí dốc tu hiền tạo phước-duyên.
– Cắm hương, rồi đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực
Cúi đầu lạy tạ Tổ-Tông,
Báo ơn sanh-dưỡng dày công nhọc-nhằn.
Rày con xin giữ Đạo hằng,
Tu cầu Tông-Tổ siêu thăng Phật-đài.
Nguyện làm cho đẹp mặt mày,
Thoát nơi khổ hải Liên-đài được lên.
Mong nhờ Đức Cả bề trên,
Độ con yên-ổn vững bền cội tu.
BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ PHẬT
– Cầm hương xá 3 xá, quì xuống, chắp tay đưa lên trán
đọc bài Quy-Y:
• Nam-Mô Ta-Bà Giáo-Chủ Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-
Ni Phật (tam niệm).
• Nam-Mô Thập Phương Phật.
Nam-Mô Thập Phương Pháp.
Nam-Mô Thập Phương Tăng.
• Nam-Mô Phật-Tổ, Phật-Thầy, Quan Thượng-Đẳng
Đại thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn-thần, chư
vị Năm Non Bảy Núi, cảm-ứng chứng-minh, nay
con nguyện cải-hối, ăn-năn, làm lành lánh dữ, quy-
y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo.
– Cắm hương lạy 4 lạy cũng được, hoặc cắm hương
đứng ngay thẳng, chắp tay vào ngực đọc tiếp:
• Nam-Mô Tây-Phương Cực-Lạc Thế-Giới Đại-Từ
Đại-Bi Phổ-Độ Chúng-Sanh A-Di-Đà Phật.
• Nam-Mô nhứt nguyện cầu: Thiên-Hoàng, Địa-
Hoàng, Nhơn-Hoàng, Liên-Hoa hải-hội, Thượng
Phật từ-bi, Phật-Vương độ chúng, thế-giới bình-
• Nam-Mô nhị nguyện cầu: Cửu-huyền Thất-tổ
Tịnh-độ siêu-sanh.
• Nam-Mô tam nguyện cầu: Phụ-mẫu tại đường
tăng long phước thọ, phụ-mẫu quá khứ trực vãng
Tây-phương.
• Nam-Mô tứ nguyện cầu: Bá-tánh vạn dân từ-tâm
bác-ái, giải-thoát mê-ly.
• Nam-Mô ngũ nguyện cầu: Phật-Tổ, Phật-Thầy từ-
bi xá tội đệ-tử tiêu tai tịnh sự, trí-huệ thong-minh,
giai đắc đạo quả.
– Lạy bốn lạy, rồi xá:
• 1 xá chính giữa niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
• 1 xá bên trái niệm: Nam-Mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát.
• 1 xá bên mặt niệm: Nam-Mô Quan-Thế-Âm Bồ-
BÀN THÔNG THIÊN
Cầu nguyện bàn Phật xong, ra bàn Thông Thiên cầu nguyện 4
hướng (lấy bàn Thông Thiên làm hướng chánh) trước mặt, sau
Hướng chánh bàn Thông Thiên có nguyện đọc bài Quy-Y, còn
ba hướng kia chỉ đọc bài Tây-phương ngũ nguyện, (mỗi hướng
(Khi cầu nguyện nếu không thể lạy được thì xá 3 xá).
Lạy đứng hay lạy quì tùy theo lúc yếu mạnh.
NIỆM PHẬT
Cúng xong muốn niệm Phật cũng được. Ngồi bán già thẳng
lưng niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
Hay niệm: Nam-Mô Tây-phương Cực-lạc Thế-giới tam thập lục
vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng
hiệu đại-từ đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật.
(Niệm Phật nhiều ít, tùy theo sức mình, lúc cầu nguyện và niệm
Phật chỉ niệm trong tâm).
Nam-Mô A-Di-Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm
chớ quên, không đợi gì thời khắc.
KHI ĂN CƠM
Mỗi khi ăn cơm với mắm muối chi cũng vậy đều nguyện vái
Cửu huyền Thất tổ, ông bà cha mẹ quá vãng về ăn với mình để
ĂN CHAY
Đến ngay đơm-quảy có chi cúng nấy.
Ăn chay ngày 14-15, 29-30, tháng thiếu 29 và mồng 1, có nhang
thì đốt, không có thì nguyện không.
Hằng năm đến ba ngày xuân nhựt thì ngày 29-30 và mồng 1
phải ăn chay, trong mấy ngày ăn chay phải cúng chay, qua đến
ngày mồng 2 có chi cúng nấy cũng được, đến ngày mồng 3 ra
mắt không nên sát sanh loài vật mà cúng tế Trời Phật, chỉ dùng
bông hoa mà cúng thôi.
ĐI XA NHÀ
Đi làm ruộng đến thời cúng, ngó về hướng Tây nguyện rồi xá 4
hướng. Còn đi xa nhà thì nguyện tưởng trong tâm cũng được.
VI. Lời Khuyên Bổn Đạo
Khi đã coi giảng thì phải tự xét mình và sửa sang những thói hư
tật xấu, mình lầm lỗi thì rứt bỏ và giữ những điều răn cấm sau
1. ĐIỀU THỨ NHỨT: Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, á
phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân lý
tam cang ngũ thường.
2. ĐIỀU THỨ NHÌ: Ta chẳng nên lười biếng, phải cần kiệm,
sốt sắng, lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất, chẳng nên gây
gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng
3. ĐIỀU THỨ BA: Ta chẳng nên ăn xài chưng dọn cho thái
quá và lợi dụng tiền tài mà đành quên nhơn nghĩa và đạo lý,
đừng ích kỷ và xu phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo
4. ĐIỀU THỨ TƯ: Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh
mà sai hay hoặc nguyền rủa, vì Thần Thánh không can
5. ĐIỀU THỨ NĂM: Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò, và
không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì
Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì
nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng
kiến mà làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì
nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta.
6. ĐIỀU THỨ SÁU: Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc,
giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không
bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải
để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường
7. ĐIỀU THỨ BẢY: Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay
đạo đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc
8. ĐIỀU THỨ TÁM: Tóm tắt, ta phải thương yêu lẫn nhau
như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức,
nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phương
an dưỡng mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt
Tất cả thiện nam tín nữ trong tôn giáo nhà Phật, lúc rãnh việc
nên thường coi kệ giảng mà giữ gìn phong hóa nước nhà, giữ
những tục lệ chân chánh, bỏ tất cả những sự dị đoan mê tín thái
quá mà làm cho đạo đức suy đồi.
Đạo-pháp thường hay dung với hòa,
Xét người cho tột xét thân ta.
Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
Ta thứ được người, người thứ ta.