Đức Huỳnh Giáo Chủ
ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG-SANH
ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG-SANH
– Đức Phật đối với chúng-sanh và môn-đồ như người cha đối với các hạng con.
– Phật yêu hết chúng sanh, dầu duyên-nghiệpchẳng đồng nhau, tu cao thấp khác nhau, nhưng mỗi chúng-sanh đều có Phật tánh.
– Lòng từ-bi của Phật, thương xót, dạy-dỗchúng-sanh, nhưng mà sự gần gũi và ban phước-huệ vẫn có khác, vì phải tùy theo mỗi kẻ tín-đồ:
o Người tín-đồ vâng lời, lo học hỏi, kiếm đạo mầu, quí trọng chuyện lành, quí trọng kinh luật, giữ theo giới-luật, cẩn thận từ lời nói việc làm thì Phật thường gần-gũi hơn và thường ban thưởng
o Những tín-đồ dối tu, chẳng vâng lời dạy,chẳng giữ giới-luật thì trên là Đức Phật và dưới là ông Thầy của kẻ ấy chỉ lấy lòng từ-bi mà nhận sự trách-cứ, chớ không thế nào mà gần-gũi và ban phước-huệ cho kẻ chẳng thành-tín kia đặng.
****************
ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG-SANH
Một ông cha ở trong gia-đình vẫn có lòng thương xót hết các con, dù lớn nhỏ, khôn dại gì cũng vậy. Tại sao? Vì xét ra lớn nhỏ là tại đứa sanh ra trước, đứa sanh sau; khôn dại là tại đứa chăm học cùng biếng trễ, chớ cũngđồng là con đều do huyết nhục sanh ra. Vậy bổn-phận ông cha thì hết lòng lo dạy-dỗ các con, lo-lắng cho có gia-cư, nghiệp-nghệ, tài-sản để cho con, ruộng đất cho con. Vậy thì tình thương vẫn đồng, mà cái chỗ âu-yếm ban thưởng nhiều khi có khác, ấy là phải tùy theo mỗi đứa.
Tại sao vậy? Vì đứa nào hiếu thuận từ-hòa, dễ dạy, dễ hiểu, thì ông cha âu yếm hơn đứa ngỗ-nghịch, bạo tàn. Với đứa khó dạy thì ông chỉ biết than-thở mà thôi, chớ không thể âu-yếm đặng. Còn đứa nào cần-kiệm, lo giữ-gìn gia-sản của cha nó, chẳng cho hư-hoại, cẩn thận từ ly, dầu lời nói hay việc làm để bảo tồn danh-giá của cha nó, thì cha nó hằng ngày ban thưởng cho nó luôn, chớ không thể ban thưởng cho những đứa hoang chơi, tàn phá sự-nghiệp, làm những điều điếm-nhục gia môn! Những đứa ấy, ông cho có thể nén lòng mà rước lấy sự chế-nhạo, trách-cứ là nhiều lắm rồi, chớ làm sao mà ban thưởng đặng.
Cũng mường tượng như trên, hỡi các người! Đức Phật đối với chúng-sanhvà môn-đồ như người cha đối với các hạng con trên đây vậy. Phật cũng yêu hết chúng sanh, dầu kẻ ngu người trí, yêu tất cả môn-đồ (dầu kẻ biếng-nhác với kẻ siêng-năng). Bởi tại duyên-nghiệp mỗi chúng-sanh chẳng đồng nhau, tu cao thấp khác nhau, nhưng mỗi chúng-sanh đều có Phật tánh. Vậy lòng từ-bi của Phật là vì thương xót chúng-sanh, lo dạy-dỗ chúng-sanh, nhưng mà sự gần gũi và ban phước-huệ vẫn có khác, vì phải tùy theo mỗi kẻ tín-đồ.
Người tín-đồ nào hằng ngày vâng lời Phật dạy, rán lo học hỏi, tìm kiếm đạo mầu, quí trọng chuyện lành thìPhật thường gần-gũi hơn đứa đã dạy nhiều lần mà chẳng chịu nghe theo, và thường ban thưởng cho kẻ tín-đồ nàoquí trọng kinh luật của Phật, chăm lòng giữ theo giới-luật, cẩn thận từ lời nói việc làm, đừng để cho người ta nhạo-báng Phật hay chê-bai Thầy của mình. Còn những kẻ tín-đồ dối tu,chẳng vâng lời dạy, chẳng giữ giới-luật thì trên là Đức Phật và dưới là ông Thầy của kẻ ấy chỉ lấy lòng từ-bi mà nhận sự trách-cứ của kẻ ngoại đạo, chớ không thế nào mà gần-gũi và ban phước-huệ cho kẻ chẳng thành-tín kia đặng.
Bạc-liêu, ngày 24-8 Nhâm-Ngũ (1942)
Ðức Huỳnh Giáo Chủ
|
Quan hệ giữa quân sự và chánh trị.
Chương XVI
Chánh Trị Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng
Quan hệ giữa quân sự và chánh trị. Clausewitz một nhà binh Pháp-Ðức, trong quyển “Chiến tranh lận” có định nghĩa chiến tranh như sau: Chiến tranh chẳng những là một hành động chánh trị (action politique) mà thực sự là một thủ đoạn của chánh sách, chánh sách kế tục quan hệ ngoại giao. Cứ theo định nghĩa nầy, quân sự chỉ là một thủ đoạn để thực hiện chánh sách. Sở dĩ gây chiến hay dùng thủ đoạn quân sự là vì đôi bên không thể giải quyết bằng đường lối ôn hòa, ngoại giao chánh trị. Quân sự hay chiến tranh, theo đó, chỉ là một thủ đoạn nhứt thời đem áp dụng trong một giai đoạn để thực hiện mục tiêu chánh trị hay quốc sách. Như thế, quân sự là tranh đấu giai đoạn còn chánh trị là tranh đấu trường kỳ, thường xuyên hay có thể nói chiến tranh hay quân sự là một thủ đoạn bạo lực để đạt đến mục đích chánh trị hay chánh sách. Dùng quân sự hay chiến tranh để giải quyết một vấn đề gì là một việc làm bất đắc dĩ, bởi giải quyết nhau bằng phương pháp chánh trị ngoại giao không xong mới đưa đến sự giải quyết bằng bạo lực, bằng súng đạn. Khi dùng đến bạo lực thì chỉ cho khỏi gây ra chết chóc sanh mạng, tàn phá sự nghiệp tài sản. Vì vậy mà loài người luôn luôn tìm cách giàn xếp bằng đường lối chánh trị hơn quân sự. Chỉ có những dân tộc bạo tàn, háo sát hung hãn, tham lam, nuôi óc cướp bóc mới ỷ thị vào sức mạnh để gây chiến tranh xâm lược hầu thỏa mãn dục vọng tham tàn, óc thích giết hại đồng loại với bản tính cầm thú. Như trường hợp nước Việt Nam chúng ta, dân tộc Việt Nam là một dân tộc hiếu hòa nhưng luôn luôn bất khuất trước mọi áp bức bạo lực, sở dĩ phải dùng đến quân sự là để bảo vệ đất nước, chúng ta không còn phương pháp nào hơn dùng bạo lực để chống lại bạo lực. Nhưng một khi cường khấu rút lui thì dân chúng ta trở lại đời sống hòa bình và luôn luôn dùng lối ngọai giao khéo léo của một nước nhỏ để bảo vệ quê hương đối với nước lớn mạnh. Ðức Huỳnh Giáo Chủ sở dĩ lập Bộ đội cũng không ngoài mục đích chống xâm lăng cứu nước. đây là một thủ đoạn bất đắc dĩ phải dùng đến, vì không còn một thủ đọan nào hữu hiệu hơn khi mà đường lối chánh trị, ngoại giao trở thành vô hiệu hay bất lực đứng trước bạo lực. Đó là một thủ đoạn áp dụng trong một giai đoạn cho nên ngoài sự thành lập Bộ đội chống xâm lăng, Ðức Huỳnh Giáo Chủ còn thành lập chánh đảng để tranh đấu thực hiện mục tiêu chánh trị, xây dựng nước Việt Nam “Công bình và nhơn đạo, một nước Việt Nam tương xứng với các nước dân chủ tiền tiến trên hoàn cầu”. Chánh trị, là mục tiêu, còn quân sự là phương tiện để đạt mục tiêu. Cho nên có thể vì chánh trị như địa bàn hay hải đăng, còn quân sự hay bộ đội như hướng, thiếu hải đăng rọi sáng ban đêm thì thuyền tàu chắc chắn phải lạc hướng và có thể rướng lên cồn hay va vào hòn vào đảo mà vở mà chìm. Một bộ đội mà thiếu chánh trị lãnh đạo thì bộ đội đó sẽ trở thành một đám lê dương chuyên nghề đánh mướn, bán máu lấy tiền hay một bộ đội lục lâm chuyên phán dân hại nước. Mục đích cầm súng là để thực thi chánh sách hay kế hoạch chánh trị. Trong giai đoạn kháng chiến, cầm súng là để chống xâm lăng bảo vệ quê hương cùng sanh mạng tài sản của đồng bào. Vì vậy mà một bộ đội cách mạng vần phải có kỷ cương. Không kỷ luật thì quân đội sẽ là một đám người ô hợp, chẳng những không thắng được địch, thực hiện mục đích chánh trị mà còn gây tai họa cho dân cho nước. Cho nên, đồng thời với sự thành lập bộ đội Ðức Huỳnh Giáo Chủ còn hợp với các nhà cách mạng yêu nước thành lập đảng chánh trị để lãnh đạo đường lối tranh đấu chống xâm lăng, giành độc lập.
Lý do lập đảng Dân Xã. Quân sự và chánh trị ví cũng như tay chân và bộ óc trong thân thể con người. Quân sự mà không chánh trị không khác thân thể có tay chân mà không có bộ óc. Không óc, con người sẽ hành động cuồng loạn. Phương chi trong giai đoạn tranh đấu cứu nước và dựng nước, chánh trị thủ lấy một vai trò tối quan trọng cũng như bộ óc trong thân thể con người, không có không được. Ví như cuộc kháng chiến thành công nghĩa là đã dùng quân sự đánh đuổi xâm lăng, chẳng phải đến đó là chấm dứt; đây chỉ mới hoàn thành giai đoạn cứu nước, nhưng còn giai đoạn xây dựng đất nước hay tái thiết quốc gia. Khi đặt ra vấn đề xây dựng đất nước là đặt ra vấn đề quốc sách để làm tiêu hướng cho phát triển quốc gia theo nhịp tiến thế giới hay nhơ loại. Và khi nói đến quốc sách là nói đến xu hướng chánh trị. Một nước là một quốc gia gồm nhiều gia đình, nhiều từng lớp xã hội, đương nhiên có nhiều ý kiến không giống nhau, có khi trái nghịch nhau. để giữ cho xã hội không rối loạn, những người cùng một xu hướng cùng một quyền lợi thường tập hợp nhau thành những đoàn thể đảng phái. Mỗi tập thể có những chương trình kiến thiết theo quan niệm xu hướng quyền lợi của mình. Đương nhiên giữa các chương trình có sự cạnh tranh nhau, thành thử có sự tiến bộ và luôn luôn tranh nhau cải thiện đời sống một ngày một tốt đẹp hơn. Chánh đảng hay đảng chánh trị là một tổ chức biểu hiện một xu hướng chánh trị, phản ảnh xu hướng và quyền lợi của những người cùng tập hợp nhau thành đoàn thể. Cho được phù hợp với nguyện vọng tiến bộ của toàn dân hay đa số nhân dân, các chương trình kiến tạo phải tùy từng giai đoạn tiến hóa mà thay đổi. Nhờ vậy mà xã hội luôn luôn trên đà tiến triển không ngừng. Bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải có lúc chấm dứt. Chỉ có đấu tranh chánh trị thì không bao giờ dứt. Khi hoàn thành một kế sách chấm dứt một giai đoạn đấu tranh thì kế tiếp một kế sách mới đặt ra đòi hỏi một sự tranh đấu mới. Như vậy hành động chánh trị luôn luôn có tánh cách trường kỳ, cho nên lúc nào chánh trị cũng đóng lấy vai trò lãnh đạo soi sáng cho quân sự có tánh cách đoản kỳ hay giai đoạn. Đó là lý do khiến Ðức Huỳnh Giáo Chủ thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng.
Miền Nam cần có một đảng chánh trị. Vì nhu cầu cần có một đảng chánh trị để lãnh đạo tranh đấu chống xâm lăng và kiến thiết quốc gia khi phục hồi nền độc lập, Ðức Huỳnh Giáo Chủ hiệp với các nhà ái quốc thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng gọi tắt là Dân Xã đảng. Ðảng Dân Xã là một chánh đảng gồm nhiều thanh phần nhưng trụ cột là thành phần đông đảo nhứt là khối Phật Giáo Hòa Hảo và Việt Nam Quốc Gia độc Lập đảng, một đàng có khối quần chúng nông dân đông đảo còn một đàng có một giàn cán bộ được huấn luyện. Xét ra trong hiện tình đất nước, các tôn giáo cũng như đảng phái ở miền Nam chưa có thể đóng lấy vai trò lãnh đạo đấu tranh chánh trị chống xâm lăng. Các tôn giáo thì không thể trực tiếp đứng ra tranh đấu vì vấp phải luật nghi ràng buộc, không cho phép bước ra ngoài phạm vi của kẻ tu hành, còn về đảng chánh trị thì ở miền Nam chỉ có Mặt Trận Việt Minh đã mang tiếng là bị Cộng sản lung lạc, mất cả sự ủng hộ trong nước và ngoài nước, đến như Việt Nam Quốc Gia độc Lập đảng, một đảng chánh trị duy nhứt ở miền Nam thì lại quá yếu vì thiếu hậu thuẫn quần chúng. Vì sự nhu cầu của tình thế, miền Nam cần có một lực lượng lãnh đạo kháng chiến và kiến thiết quốc gia khi nền độc lập được khôi phục. Sự thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng thống hợp hai khối: Phật Giáo Hòa Hảo (Tôn giáo) và Việt Nam Quốc Gia độc Lập đảng (chánh trị) cùng một số đoàn thể: thanh niên, cần lao, kháng chiến thành một lực lượng chánh trị đủ khả năng đóng lấy vai trò lãnh đạo quốc gia trên lập trường dân tộc. Ðảng Dân Xã chẳng những cần thiết trong giai đoạn tranh đấu chống xâm lăng giành độc lập mà còn cần thiết trong giai đoạn kiến tạo quốc gia giữa hai chủ nghĩa cực đoan: Tư bản và Cộng sản đang tranh giành ảnh hưởng trên bàn cờ quốc tế. Nếu đứng trên phương diện phúc lợi của nhân dân mà xét thì mỗi chủ nghĩa đều có ưu điểm và nhược điểm. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, con người được giải phóng về đời sống tinh thần, được hưởng mọi quyền tự do dân chủ. Nhưng cũng vì tự do quá trớn mà hạng giàu, hạng tư bản được tự do bóc lột hạng nghèo khó, công nhơn lao động. Khiến cho hạng thiếu phương thức sanh sản phải nghèo kổ, thất nghiệp chịu đói chịu khát. Ðến như chế độ cộng sản, mặc dầu về đời sống không có cảnh thất nghiệp nhưng cũng bị bóc lột sức lao động, bị tước đoạt tài sản. Ngoài ra còn bị đàn áp về mặt tinh thần. Trong chế độ Cộng sản không có danh từ tự do, dù là tự do suy nghĩ, nghĩ khác hay nói khác hơn những mạng lịnh của chánh quyền là bị tù đày, bị thủ tiêu. Nếu đem so sánh hai chế độ, người ta có thể nói, trong chế độ tư bản, con người được hoàn toàn tự do về mặt tinh thần, nhưng bị bóc lột về đời sống vật chất; còn trong chế độ Cộng sản thì con người được phần nào đảm bảo về đời sống xã hội nhưng hoàn toàn bị bóp nghẹt về phương diện tinh thần. Thành thử con người, sống trong chế độ nào, tư bản hay Cộng sản, vẫn thấy thống khổ, khổ về đời sống vật chất, khổ về đời sống tinh thần. Sau đệ nhị thế chiến, loài người sống giữa hai sự tranh chấp của hai chế độ cực hóa, luôn luôn chực biến con người thành những bộ máy sản xuất và trong tương lai có thể đưa loài người đến vực thẳm diệt vong, nếu những tâm hồn cuồng loạn vì tham vọng đen tối không chịu thức tỉnh, trở lại bản tánh nhân thiện mà dẹp bỏ các thứ võ khí sát nhân. Ðứng giữa hai chế độ cực hóa, loài người chỉ còn một xuất lộ, vừa giải phóng con người về phương diện đời sống vật chất và tinh thần, đồng thời đem lại một đời sống quân bình hạnh phúc. Đó là chủ nghĩa Dân Chủ Xã Hội, một chủ nghĩa “trung hóa” nghĩa là đứng giữa hai cực đoan, hóa giải thành một chủ nghĩa quân bình, giải phóng con người cả hai phương diện. Với chủ nghĩa dân chủ trong Dân Chủ Xã Hội, con người sẽ được hoàn toàn tự do về mặt vật chất cũng như tâm linh. Với chủ nghĩa xã hội trong Dân Chủ Xã Hội, đời sống con người sẽ được đảm bảo: không còn sự chinh lệch quá xa giữa hạng giàu và hạng nghèo. Ai ai cũng được đảm bảo về nhà ở, công ăn việc làm. Mỗi gia đình đều có một mái nhà, nhà nông có ruộng, người thợ có nghề và các công cụ cần thiết cho nghề nghiệp. Xã hội Dân Xã có thể gọi là quân bình nhứt trong đó mọi người đều sống một đời hoàn toàn an lạc. (hai tấm hình của Ðức Thầy (trang 286,287). Ðảng Dân Xã chẳng những cần thiết trong giai đoạn kháng chiến chống xâm lăng mà còn cần thiết trong giai đoạn xây dựng quốc gia khi Việt Nam độc lập. Hiện nay có nhiều nước đang tiến trên con đường dân chủ xã hội. Trong tương lai, sự giải thể hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản sẽ đưa nhơn loại đến một chủ nghĩa quân bình anlạc, phù hợp với con người hoàn toàn giải phóng. Đó là chủ nghĩa Dân Chủ Xã Hội. Cho nên sự thành lập đảng Dân Xã chẳng những đáp ứng được nhu cầu cứu nưóc mà còn phù hợp với trào lưu tiến hóa nhơn loại trên bước đường tương lai tiến đến một xã hội quân bình an lạc chủ nghĩa Dân Chủ Xã Hội. Ðức Huỳnh Giáo Chủ, là một bực tiên giác, tiên liệu được thời cuộc và bước tiến của nhơn loại, nên chủ trương thành lập một chánh đảng lấy tên là Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng. Ngài đã giải thích lý do tại đâu chấp nhận thành lập đảng Dân Xã và dùng đảng nầy làm lợi khí tranh đấu thay vì dùng tôn giáo. Ngài có nêu ra ba lý do sau đây để đáp lại câu hỏi của một tín đồ (1): “1. Việt Minh tranh đấu chánh trị. Nếu Thầy đem đạo ra tranh đấu thì không thể được, vì đạo chỉ lo tu hành chơn chất, nên Thầy phải tổ chức đảng chánh trị mới đủ điều kiện để tranh đương kịp. “2. Các nhà ái quốc chơn chánh trong nước mặc dù nhìn nhận Thầy là nhà ái quốc chơn chánh, nhưng không thể hiệp chung với Thầy lo việc quốc gia, bởi lẽ anh em ấy không thể tu hành như mình, hoặc giả đã có đạo rồi thì không lẽ bỏ đạo mà qui y theo Phật Giáo Hòa Hảo, vì vậy Thầy phải tổ chức đảng chánh trị để anh em ấy có điều kiện tham gia vì rằng tham gia, họ chỉ giữ kỷ luật của đảng mà thôi, còn tôn giáo thì của ai nấy giữ. “3. Tất cả anh em tín đồ nếu thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, thương nước thương dân hãy tham gia mà tranh đấu. Ðây là phương tiện để anh em tín đồ hành sử Tứ Ân”. (2)
Ðảng Dân Xã không phải Phật Giáo Hòa Hảo đổi tên. Ðể đánh tan dư luận thấy khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tham gia đông đảo vào đảng Dân Xã, nên cho rằng đảng Dân Xã là Phật Giáo Hòa Hảo trá hình, Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã cực lực đính chánh điều ngộ nhận ấy trong bài minh xác trên báo Quần Chúng ngày 15-11-1946 như sau: “1. Ðảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội là một đảng chánh trị, có tuyên ngôn, chương trình, điều lệ rõ ràng do mấy nhóm chánh trị, đoàn thể kháng chiến hay anh em trong các tôn giáo mà hoạt động chánh trị hợp lại thành lập. Thế thì không phải Phật Giáo Hòa Hảo đổi tên. “2. Sở dĩ tôi nhân danh mà kêu gọi anh em Hậu Giang là vì về dĩ vãng mặc dù tôi ở trong địa hạt Phật giáo, nhưng có quyền riêng là gia nhập Việt Nam Dân Xã, nó hợp với quan niệm tranh đấu chánh trị của tôi. Cái quyền nhập đảng ấy, anh em Công giáo, Cao đài, Tịnh độ cư sĩ vẫn có cũng như tôi. Hiện nay tôi là đảng viên của đảng Dân Chủ Xã Hội và có rất nhiều anh em ở Hậu giang cũng đã vào đảng Dân Xã. Khi đã vào đảng đều tuân kỷ luật của đảng trong sự hoạt động chánh trị. Như vậy cũng rõ rệt rằng Phật Guiáo Hòa Hảo và đảng Dân Xã là hai tổ chức khác nhau, Tôn giáo là Tôn giáo mà Chánh trị là Chánh trị”. (3) Một điều nữa chứng tỏ đảng Dân Xã không phải Phật Giáo Hòa Hảo đổi tên là việc thành lập Ban Chấp Hành Trung Ương mà những chức vụ quan trọng đều giao phó cho anh em Việt Nam Quốc Gia Ðộc Lập đảng, nhứt là trường hợp anh Nguyễn Bảo Toàn được Ðức Huỳnh Giáo Chủ cử giữ chức vụ Tổng Bí Thơ trong Trung Ương đảng Bộ. Anh thuộc gia đình Thiên Chúa Giáo, thế mà anh được đề cử là vì hai lý do sau đây: a) Trước nhứt anh chủ trương tờ nhựt báo Dân Mới, nổi tiếng chống Pháp nên bị Tòa đại hình kêu án 5 năm khổ sai đày đi Côn Đảo. Đến năm 1944 mãn tù, anh bị quản thúc tại Mặc Bắc (Trà Vinh) quê quán anh cho đến ngày Nhựt đảo chánh. Anh hiệp với Nguyễn văn Sâm, Hồ văn Ngà, Phan Khắc Sửu… thành lập Việt Nam Quốc GiaĐộc Lập Đảng, trong đó anh giữ chức vụ Tổng Bí Thơ, nhờ thành tích đi Côn đảo. Chính với thành tích nầy Ðức Thầy đề cử anh giữ chức Tổng Bí Thơ Trung ƯơngĐảng Bộ Đảng Dân Xã, cũng như ông Nguyễn Giác Ngộ được Ðức Thầy đề cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Chi đội Nguyễn Trung Trực cũng do ban năm Côn đảo của ông. Như thế Ðức thầy chọn người lãnh đạo là tùy ở thành tích chớ không dựa vào tình cảm hay tôn giáo. Việc đề cử anh Nguyễn Bảo Toàn vào chức vụ Tổng Bí Thơ đủ nói lên tinh thần trọng dụng nhân tài, đặt quyền lợi quốc gia trên tình nghĩa bè phái. b) Đề cử anh Nguyễn Bảo Toàn thuộc gia đình Thiên Chúa Giáo mà không đề cử tín đồ Phật Giáo như ông Nguyễn văn Sâm, Trần văn Ân hay tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo như bác sĩ Trần văn Tâm là để minh xác đảng Dân Xã không phải là Phật Giáo Hòa Hảo trá hình hay đổi tên, mặc dầu đa số đảng viên là khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.
Diễn tiến của đảng Dân Xã. Với ý định thành Liên khu Quốc gia, để làm thế mạnh bên ngoài, Ðức Thầy phái ông Nguyễn Hoàn Bích tức Nguyễn Bảo Toàn sang Trung Hoa hiệp với các nhà cách mạng lưu vong thành lập Mặt Trận Toàn Quốc và để làm thế ủng hộ bên trong, Ngài phái ông Lê văn Thu về miền Tây mở lớp huấn luyện cán bộ chánh trị và xúc tiến việc đặt cơ sở khắp nơi. Cuối năm 1946, tình hình trở nên khó khăn, do sự phản ứng của nhân dân chống lại sự khủng bố ráo riết của Pháp. đường sá bị phá, sự lưu thông bị gián đoạn nhiều nơi. Vì vậy sự liên lạc giữa Trung Ương với các Bộ đội tác chiến cũng như cơ quan chánh trị ở miền Tây bị cắt đứt. Một phúc trình hoặc đề nghị từ miền Tây chuyển lên Trung Ương mất nhiều thời giờ, rất trở ngại cho công việc hoạt động quân sự và chánh trị. Cho nên cuối 1946, một hội nghị quân chính được triệu tập tại Hiệp Xương. Về phía quân sự thì có Ban chỉ huy Bộ đội Nguyễn Trung Trực, còn về phía chánh trị thí đại diện các Ban Chấp Hành Tỉnh Bộ. Ðức ông được mời tham dự với tư cách cố vấn. Ðể tiện việc hoạt động kịp thời ứng phó với tình thế, hội nghị đồng chấp nhận một kiến nghị yêu cầu Trung Ương sớm thành lập một Ban chỉ huy Quân chính miền Tây để trực tiếp lãnh đạo sanh hoạt quân sự và chánh trị. Vào đầu năm 1947, Trung Ương có phái về 3 vị: Lê văn Kinh (tức Lương Trọng Tường), Ngô văn Hai (tức Nguyễn xuân Tăng) và ông Sơn (tức Lâm ngọc Thạch) về miền Tây đứng ra triệu tập một phiên họp tại Cái Gút, xã Nhơn Mỹ để thành lập Ban Chấp Hành Liên Tỉnh miền Tây. Theo đề nghị thì xin lập Ban chỉ huy Quân chính, Ban chỉ huy viết tắt BCH có thể hiểu là Ban Chấp Hành?
Ban Chấp Hành Liên Tỉnh. Phiên họp gồm có 3 vị của Trung Ương phái về, ông Lê văn Thu lúc bấy giờ là Giám đốc khóa huấn luyện chánh trị tại Nhơn Mỹ, ông Mai văn Dậu, nhơn viên trong Ban Hòa Giải và đại diện các Ban chấp hành Tỉnh bộ. Mở đầu phiên họp, ông Lê văn Kinh trình Ủy nhiệm thơ của Trung Ương, đặc phái ba ông về Hậu giang thành lập Ban chấp hành Liên Tỉnh miền Tây, với hình thức Ban Thường Vụ như sau: – 1 Trưởng ban – 1 Tổng Bí Thơ – 1 Ủy viên Tài chánh Ðại diện Tỉnh bộ Châu đốc liền đưa ra nhận xét hình thức tổ chức ấy không thấy ấn định trong điều lệ của đảng và nếu tổ chức theo hình đó thì phá vỡ tổ chức cũ từ tỉnh xuống đến xã ấp. Như thế là làm xáo trộn cả bộ máy đảng trong Tỉnh Châu đốc. Ông Kinh khẳng định rằng: ông được Ủy viên đặc biệt (Ðức Thầy), đồng thời cũng là sáng lập viên và Ủy viên Trung ương, đã ủy nhiệm thì ông có toàn quyền tổ chức. Trước Ủy nhiệm thơ của Ðức Thầy, các cử tọa đều im lặng. Nhưng đại diện Tỉnh bộ Châu đốc có đưa ra nhận xét là hình thức tổ chức ấy không được ổn bởi lẽ, nếu có chức Tổng Bí Thơ thì không có chức Trưởng Ban, vì đó là hình thức tổ chức của một Chánh đảng. Còn nếu có chức Trưởng Ban thì không thể có chức Tổng Bí Thơ, bởi đây là hình thức tổ chức của hiệp hội. Nếu tổ chức theo hiệp hội thì gọi là Tổng thơ ký. Ông Ngô văn Hai yêu cầu định nghĩa và phân biệt thế nào là Tổng Bí Thơ và thế nào là Tổng Thơ Ký. Ðại diện Tỉnh bộ Châu đốc liền phân tách: Tổng Bí Thơ là chức vụ chưởng quản các Bí Thơ, một chức vụ tối quan trọng trong đảng, vì người sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm với cấp trên và giữ bí mật các văn kiện mật. Còn Tổng Thơ Ký chỉ có phận sự làm công việc văn phòng của một Ban Thường Vụ mà thôi. Vã lại với hình thức của tổ chức hiệp hội, từ chức vụ Trưởng Ban cho đến Tổng Thơ Ký trong Ban Thường vụ đều liên đới chịu trách nhiệm và mọi huấn lịnh, chỉ thị đều đem ra thảo luận chung, khác hơn hình thức tổ chức đảng, chức vụ Tổng Bí Thơ hay Bí Thơ chịu hoàn toàn trách nhiệm và giữ mật mọi việc quan trọng. Sau khi nghe trình bày, ông Lê văn Kinh cũng như ông Ngô văn Hai đồng chấp nhận đổi danh từ Tổng Bí Thơ lại Tổng Thơ Ký. Dầu vậy , đại diện Tỉnh bộ Châu đốc cũng kháng nghị rằng hình thức tổ chức hiệp hội trái nghịch với điều lệ và làm xáo trộn bộ máy tổ chức cũ. Ông Lê văn Thu yêu cầu ghi lời kháng nghị của Tỉnh Châu đốc vào biên bản để trình lên Trung Ương quyết định tối hậu. Vào đầu tháng 2 năm 1947, Ðức Thầy di chuyển về miền Tây, đặt văn phòng tại Hành dinh của Chi đội 30 ở xã Phú Thành, có lẽ đọc biên bản nên có cho vời nhân viên Ban chấp hành Tỉnh bộ Châu đốc đến. Sau khi nghe trình bày, Ngài có nói; Tuy tôi là Ủy viên Trung Ương cũng là sáng lập viên đảng Dân Xã, vẫn không có quyển sửa đổi điều lệ. Quyền ấy phải dành cho đại hội toàn quốc, một năm được triệu tập một lần, mới có quyền sửa đổi mà thôi. Như vậy ông Kinh đã làm sai nguyên tắc. Nói đoạn, Ngài xoay qua ra lịnh cho văn phòng viết thơ mời gấp Ban chấp hành Liên Tỉnh (4). Mấy hôm sau đó, Ðức Thầy ngộ nạn. Thế rồi Ban chấp hành Liên tỉnh cứ tiếp tục hoạt động theo hình thức tổ chức mới và ra lịnh cho các cấp bộ lệ thuộc cùng cải tổ theo. Về hình thức, thế là Ðảng Dân Xã đã thay đổi mà về tinh thần, đảng cũng trải qua một cuộc biến cải hay lột xác, từ địa vị lãnh đạo chánh trị đã biến thành một tổ chức lệ thuộc quân sự, đóng lấy vai trò tiếp tế, cung phụng vừa tiền bạc vừa quân nhu thực phẩm cho quân đội mà thôi. Các nhà ái quốc trí thức theo Ðức Thầy về miền Tây để phục vụ đảng, hoặc đào tạo cán bộ hoặc chuẩn bị ra báo, nhận thấy đảng Dân Xã đã biến thể nên không còn lý do để phục vụ, lần lượt rút lui về Sài Gòn. Trong số đó được biết: Luật sư Lê văn Thu, nhà văn Nguyễn Duy Linh, các giáo sư Huế Ðiền, Võ văn Lượm… Về phương diện chánh trị đã thế mà về phương diện quân sự, vì sự bức bách của tình thế cũng có chỗ đổi thay. để đáp ứng với tình thế mới Bộ đội Phật Giáo Hòa Hảo ra đời. Thừa cơ hội Ðức Thầy vắng mặt, Thực dân cũng như Cộng sản tăng gia tấn công và khủng bố.
Cờ Ba Sao. Vào khoảng tháng 7 năm 1947, trong một trận đánh tại vùng Láng Linh, vì thiếu quân kỳ nên Bộ đội Dân Xã bị thiệt hại nặng. Có một số sĩ quan như Cò Trình, Cờ No… tử trận. Ông Lâm Thành Nguyên đến báo cáo với Ban Chấp Hành Liên Tỉnh lúc bấy giờ đóng tại xã Hưng Nhơn, nguyên nhân của sự tổn thất và yêu cầu Liên tỉnh tạo cho lá quân kỳ. Sau khi thảo luận, lá cờ vàng với một ngôi sao đỏ được đưa ra, có ý đối chọi lại cờ VM, nền đỏ một ngôi sao vàng. Lá cờ nầy không được chấp nhận, vì lẽ nó không khác lá cờ của Thanh Niên Tiền Phong. Do đó, lá cờ được thêm hai ngôi sao nữa nghĩa là thành lá cờ nền vàng ba ngôi sao đỏ. Ban Chấp Hành Liên Tỉnh có yêu cầu các cấp cho ý kiến và giải thích ý nghĩa để chọn lựa. Có nhiều ý kiến được đưa ra. Người thì giải rằng: nền vàng là màu tượng trưng cho quốc gia Việt Nam, còn ba sao là tượng trưng cho ba kỳ: Nam, Trung, Bắc hoặc -Tam dân chủ nghĩa: Dân tộc, Dân quyền, Dân sanh. – Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. – Tam tài: Thiên, địa, Nhơn.
Cuối năm 1947, một cái tang đưa đến cho đảng Dân Xã: ông Nguyễn văn Sâm, Ủy viên Trung Ương đặc trách Ngoại giao và đồng thời cũng là đại diện cho Mặt Trận Toàn Quốc tại miền Nam bị ám sát tại Chợ Lớn (10-10-1947). Tiếp theo đó, bác sĩ Trần văn Tâm, Ủy viên Trung Ương đặc trách Tài chánh, cũng bị ám sát. Thế là sự liện lạc giữa Trung Ương đảng bộ với Ban Chấp Hành Liên Tỉnh đã lỏng lẻo từ sau ngày Ðức Thầy ngộ nạn, nay thì đứt hẳn. Từ biến hình, đảng Dân Xã đến đây mất luôn lãnh đạo và dần dần lột xác biến thành một đảng Hòa Hảo. Trong lúc mất lãnh đạo, lại thêm dồn dập bị Pháp tấn công khủng bố, bắt bớ cán bộ, cũng như làm tê liệt các cơ quan tỉnh, quận, xã, cố dồn ép đảng Dân Xã hoặc tan rã, hoặc liên minh với Pháp chống cộng. Vì giữ vững lập trường kháng chiến nên đảng bị khủng bố đến tê liệt. Ðầu năm 1948, một phiên họp được triệu tập tại chùa Cây Xanh ở Cái Tắc, Ban chấp hành Liên Tỉnh tuyên bố đình chỉ công tác. Thế là các cán bộ phải hoặc rút vào vị trí bí mật, hoặc chui vào các lực lượng võ trang để tiếp tục tranh đấu quân sự.
Ðảng Dân Xã Ba Sao. Năm 1954, nhân đem quân ra hợp tác với quân đội quốc gia, đại tá Lê Quang Vinh tức Ba Cụt, cho hợp thức hóa Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng với đảng kỳ nền vàng ba ngôi sao đỏ dụm lại (5), do Nghị định số 91-BNV/CT ngày 14-5-1954. Kịp khi Hiệp định Geneve ra đời (20-7-1954), đại tá Lê Quang Vinh kéo toàn quân và đảng Dân Xã vào bưng biền chống lại sự qua phân lãnh thổ Việt Nam do âm mưu của Thực dân và Cộng sản, cho đến ngày chế độ độc tài gia đình trị của Ngô đình Diệm bị lật đổ. Sau khi đảng rút vào bưng, Ngô đình Diệm ban hành Nghị định số 41-NV ngày 27-1-1955 thâu hồi Nghị định số 91-BNV/CT ngày 14-5-1954 cấm Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng với lá cờ nền vàng ba sao đỏ hoạt động.
* * *
Nhắc lại Nguyễn Hoàn Bích tức Nguyễn Bảo Toàn Tổng Bí Thơ của đảng được Ðức Huỳnh Giáo Chủ để cử đại diện đảng và Phật Giáo hòa Hảo sang Trung Hoa hiệp với các nhà cách mạng lưu vong thành lập Mặt Trận Toàn Quốc với mục đích xây dựng một thế quốc gia. Nhưng vì công dân Vĩnh Thụy lại nghe theo ý kiến của Pháp, chịu trở về nước với danh nghĩa Quốc Trưởng Bảo đại nên nhiệm vụ của Mặt Trận bất thành trong công cuộc xây dựng thế quốc gia bên ngoài làm hậu thuẫn cho Liên khu Quốc gia kháng chiến bên trong. Liền sau đó Ðức Huỳnh Giáo Chủ ngộ nạn, rồi vài tháng sau ông Nguyễn văn Sâm bị ám sát. Ðầu năm 1948, Nguyễn Bảo Toàn trở về nước, gặp phải hoàn cảnh vô cùng bất lợi. Một mặt cơ sở Trung Ương không còn, một mặt tánh mạng bị đe dọa nên buộc lòng phải xuất ngoại sang Ấu Châu, sống với nghề mở lớp hàm thụ dạy chánh trị.
CHÚ THÍCH (1) ông Huỳnh Hữu Phỉ. (2) Hành sử đạo nhân. Tr. 140. (3) Hành sử đạo nhân. Tr. 144. (4) Nghe đâu, sau đó Liên tỉnh có đến và theo lời của nhiều nhân viên văn phòng thuật lại, Ðức Thầy thâu hồi giấy ủy nhiệm của ông Kinh và ra lịnh cho Sáu Rớt (tức đại tá Trần văn Tươi) đưa ông Kinh về Sài Gòn. Chừng như Sáu Rớt vì bận việc lo chuyên chở thuốc men nên có hẹn với Ðức Thầy để hoãn lại một ngày khác. (5) Khi mới ra đời ba sao xếp theo hình vòng cung chớ không dụm lại. |
MUC LUC | CHƯƠNG 1 | | CHƯƠNG 2 | | CHƯƠNG 3 | | CHƯƠNG 4 | | CHƯƠNG 5 | | CHƯƠNG 6 | |CHƯƠNG 7 | | CHƯƠNG 8 | | CHƯƠNG 9 | | CHƯƠNG 10 | | CHƯƠNG 11 | | CHƯƠNG 12 |
| CHƯƠNG 13 | | CHƯƠNG 14 | | CHƯƠNG 15 | | CHƯƠNG 16 | | CHƯƠNG 17|
Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔvà Phật Giáo Thời Ðại
Lê Hiếu Liêm
|Muc Luc| |Ch.1| |Ch.2| |Ch.3| |Ch.4| |Ch.5| |Ch.6| |Ch.7| |Ch.8| |Ch.9| |Ch.10| |TK|
[BHH430] [PGHH] [THƯ VIỆN PGHH]
|
For any questions, send Email to: phvpghh@aol.com
Copyright © 2003. PhatHocVienPGHH. All rights reserved.
Revised: 04/24/04
Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔvà Phật Giáo Thời ÐạiLê Hiếu Liêm
Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔvà Phật Giáo Thời ÐạiLê Hiếu Liêm
|Muc Luc| |Ch.1| |Ch.2| |Ch.3| |Ch.4| |Ch.5| |Ch.6| |Ch.7| |Ch.8| |Ch.9| |Ch.10| |TK|
[BHH430] [PGHH] [THƯ VIỆN PGHH]
|
For any questions, send Email to: phvpghh@aol.com
Copyright © 2003. PhatHocVienPGHH. All rights reserved.
Revised: 04/24/04
Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔvà Phật Giáo Thời ÐạiLê Hiếu Liêm
Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔvà Phật Giáo Thời ÐạiLê Hiếu Liêm
|Muc Luc| |Ch.1| |Ch.2| |Ch.3| |Ch.4| |Ch.5| |Ch.6| |Ch.7| |Ch.8| |Ch.9| |Ch.10| |TK|
[BHH430] [PGHH] [THƯ VIỆN PGHH]
|
For any questions, send Email to: phvpghh@aol.com
Copyright © 2003. PhatHocVienPGHH. All rights reserved.
Revised: 04/24/04
Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ và Phật Giáo Thời Ðại
Chương một: Dẫn nhập Việt Nam và Phật Giáo đầu thế kỷ hai mươi.
Đầu thế kỷ 20, tư tưởng Nho Giáo, thống trị độc tôn đất nước từ Thời Hồ Quý Ly, nhà Lê và nhà Nguyễn suốt 400 năm, hoàn toàn sụp đổ. Tư tưởng Phật Giáo, ngự trị vinh quang trong thời đại Lý Trần từ thế kỷ thứ 11 đến cuối thế kỷ 14, suy đồi tận gốc. Tư tưởng Tây Phương và tôn giáo của nó, Thiên Chúa Giáo La Mã, bị đại đa số trí thức và nhân dân coi như sản phẩm và công cụ của chế độ Thuộc Địa và thực dân Pháp nên vẫn không được chấp nhận. Ý thức hệ Cộng Sản cũng như các tư tưởng mới khác chưa ra đời. Cả một khoảng trống tư tưởng, cũng có nghĩa là một khoảng trống tôn giáo và chính trị, to lớn bao trùm trên một nước Việt Nam bị nô lệ, bóc lột, áp bức, lạc hậu và nghèo đói. Nhưng đây cũng là môi trường lý tưởng cho sự ra đời của những tư tưởng mới, những tôn giáo mới, những chính đảng mới và những phong trào mới: Phong trào Đông Du và Việt Nam Duy Tân Hội của Phan Bội Châu từ năm 1904,Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can và các nhà Nho tiến bộ năm 1907, tư tưởng dân quyền và dân chủ của Phan Chu Trinh suốt hai mươi năm (1905-1925), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội cùng năm, Việt Nam Quang Phục Hội năm 1912, cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ và ở Huế năm 1916 của Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung, vua Duy Tân…, phong trào Hội Kín ở miền Nam năm 1913-1916 lan rộng khắp Lục Tỉnh và cuộc tấn công Sài Gòn năm 1916. Các hoạt động này đã liên tục diễn ra từ đầu thế kỷ 20 đến cuối đệ nhất thế chiến. Tuy nhiên mãi đến đầu thập njiên 20 Việt Nam mới thật sự thức dậy với sự ra đời Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng Chí Hội và Tân Việt Cách Mạng Đảng năm 1925, Đạo Cao Đài năm 1926, Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1927, Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và sự ra đời của Đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1930 và phong trào Sô Viết Nghệ Tỉnh 1930-1931.
Trong thời gian sôi động này, từ 1925 trở đi, Phật Giáo cũng đã thức dậy. Từ năm 1923, thiền sư Khánh Hòa và thiền sư Thiện Chiếu đã thành lập, tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh, Hội Lục Hòa Liên Hiệp với mục đích vận động thành lập một Hội Phật Giáo Việt Nam toàn quốc để chấn hưng Phật Giáo. Thiền sư Thiện Chiếu, khác hẳn tất cả tăng sĩ Phật Giáo đương thời, là một tăng sĩ có tân học. Ông đã đi ra Trung và Bắc vận động thống nhất Phật Giáo năm 1927 nhưng bất thành. Năm 1928 thiền sư Khánh Hòa xây dựng Thích Học Đường và Phật Học Thư Xã tại Chùa Linh Sơn, Sài Gòn và năm 1929 Ông cho ấn hành tạp chí Viên Âm, tập san Phật Học đầu tiên bằng quốc ngữ tại Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Xoài Hột, Mỹ Tho. Cùng thời, thiền sư Thiện Chiếu xuất bản một tạp chí Phật Học nhắm vào giới thanh niên trí thức lấy tên là Phật Hòa Tân Thanh Niên, đặt tòa soạn tại chùa Chúc Thọ ở Gia Định.
Năm 1931 thiền sư Khánh Hòa cùng nhiều tăng sĩ và cư sĩ thành lập Hội Phật Học đầu tiên tại Việt Nam, lấy tên là Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học và thiền sư Từ Phong được mời làm Chánh Hội Trưởng. Hội ra tờ Từ Bi Âm năm 1932. Thiền sư Khánh Hòa, cùng người cộng sự thân tín là thiền sư Thiện Chiếu đã đóng vai trò tiền phong khai mở phong trào chấn hưng Phật Giáo và hiện đại hóa Phật Giáo, chuyển động sâu rộng lịch sử Phật Giáo và lịch sử Việt Nam trong suốt 65 năm qua. Tại miền Trung, thiền sư Giác Tiên mở Phật Học Đường tại chùa Trúc Lâm năm 1929 và ủy thác cho đệ tử là bác sĩ Lê Đình Thám thành lập Hội An Nam Phật Học năm 1932. Hội quy tụ đông đảo những danh tăng và cư sĩ trí thức tại miền Trung. Cư sĩ Lê Đình Thám được bầu làm Hội Trưởng và vua Bảo Đại được mời làm Hội Trưởng Danh Dự. Hội ra tạp chí Phật Học Viên Âm năm 1933. Năm 1934, thiền sư Giác Tiên, cư sĩ Lê Đình Thám… đã thành lập Trường An Nam Phật Học, trong đó có mở cấp Đại Học Phật Giáo. Đặc biệt hơn nữa là Hội đã phát động phong trào “Chỉnh Lý Tăng Già” rất quyết liệt để loại trừ ra khỏi tăng già những thành phần phạm giới, bất xứng. Chính nhờ những nổ lực cấp tiến này mà Phật Giáo miền Trung đã đóng được một vai trò quan trọng trong những thập niên sau đó. Năm 1934 các thiền sư Trí Hải, Tâm Ứng, Tâm Bảo cùng với giới cư sĩ trí thức tên tuổi tại Hà Nội như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Dương Bá Trạc, Trần Văn Giáp, Nguyễn Năng Quốc, Nguyễn Hữu Kha, Bùi Kỷ, Lê Dư… thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Hội, bầu cư sĩ Nguyễn Năng Quốc làm hội trưởng và suy tôn thiền sư Thanh Hanh làm Thiền Gia Pháp Chủ. Đặc biệt là trong buổi lễ suy tôn Pháp Chủ này, cư sĩ Trần Trọng Kim đã thuyết pháp về đề tài; “Thập Nhị Nhân Duyên”. Hội ra tạp chí Đuốc Tuệ năm 1935 và phát triển mạnh mẽ khắp miền Bắc (Nguyễn Lang, Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, q 3, t 51-173). Đặc tính của cả ba Hội Phật Học tại ba miền là vai trò nổi bật của giới trí thức cư sĩ, là thuần túy Phật học và sinh hoạt Phật sự. Thời điểm 1925-1945 là thời điểm chuẩn bị trong kiên nhẫn và thầm lặng. Các hội Phật Học đã làm đúng chức năng và vai trò lịch của mình, một cách khiêm tốn, từ đống gạch vụn đổ nát của nền Phật học và Phật Giáo Việt nam trong thời Thực Dân Pháp thống trị. Trong thời kỳ này xuất hiện những con người đặc biệt, xuất sắc và những tư tưởng mạnh mẽ, quyết liệt, trong Phật Giáo cũng như ngoài Phật Giáo. Từ đầu thập niên 30, tư tưởng Phật Hộc của Thích Thiện Chiếu đã là những quả bom chấn động. Và năm 1939 Huỳnh Phú Sổ xuất hiện làm một cuộc cách mạng tôn giáo, cải cách toàn bộ và triệt để Phật Giáo chưa từng có trong hai ngàn năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Miền Nam, một vùng đất lạ lùng và kỳ diệu…
An Hòa Tự Phan Chu Trinh từ Pháp trở về Sài Gòn năm 1925, đất nước bùng lên những làn sóng tư tưởng dân quyền và dân chủ. Ông khẳng định phải tìm nguyên nhân mất nước trong sự mất đạo đức, mất luân lý, trong bài diễn thuyết Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây, và ông cũng khẳng định chế độ quân chủ chuyên chế là nguyên nhân chính làm mất nước trong bài thuyết giảng Quân Trị Chủ Nghĩa và Dân Trị Chủ Nghĩa tại Sài Gòn năm 1925. Ông mất năm sau đó và đám tang ông cùng với cuộc vận động ân xá nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã khơi bùng phong trào yêu nước và yêu tự do dân chủ trên toàn quốc, đặc biệt là trong giới thanh niên. Nhưng dữ dội, bốc lửa và sấm sét trong tư tưởng yêu nước chống thực dân cũng như tư tưởng tự do dân chủ, trong thời này, chỉ có Nguyễn An Ninh là đi xa nhất, quyết liệt nhất. Là một thanh niên miền Nam,Ông đi du học ở Pháp và trở về nước với bằng cử nhân Luật. Lợi dụng quy chế thuộc địa của Nam Kỳ, nơi mà báo chí bằng tiếng Pháp được tự do, không bị kiểm duyệt, Ông ra tờ La Cloche fèlèe (Tiếng Chuông Rè) từ năm 1923 đến năm 1926. Ông tự xưng tờ báo của Ông là “cơ quan tuyên truyền tư tưởng Pháp”, lấy tư tưởng của kẻ xâm lăng để đập những nhát búa tạ vào chế độ Thực Dân, đồng thời tờ báo cũng tự nhận là “cơ quan chuẩn bị cho tương lai dân tộc”. Thật là độc đáo và tuyệt vời. Ngoài việc phê bình kịch liệt, thẳng tay chính sách và chế độ thực dân, Ông cổ võ cho việc đào tạo một tầng lớp thanh niên Việt Nam tân học, có văn hóa, có lý tưởng, có chí khí, có năng lực và có tổ chức vàÔng tuyệt đối tin vào sức mạnh và vào tương lai của nhân dân Việt Nam. Ông chủ trương một nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc và trở về lịch sử dân tộc để tìm niềm tin và sức mạnh. Ông hô hào, khi chỉ mới ngoài 20 tuổi, “Chẳng những phải duy trì những giấc mộng vĩ đại, mà còn phải tổ chức thành một nhóm quan trọng để chuẩn bị cho tương lai”. Không những tư tưởng táo bạo, độc đáo, mới lạ, kiến thức của Ông cũng rất uyên bác. Khi Thống Đốc Nam Kỳ tuyên bố: “Xứ này không cần trí thức”. Ông đã viết bài trả lời bốc lửa: “… Những thảm khổ của chúng ta ngày nay, còn gì nữa, đúng là do tổ tiên của chúng ta đã sờ mó vào cây kiến thức. Hạng trí thức đã làm đảo lộn thế giới, làm hư hỏng hạnh phúc của thế giới. Hãy nguyền rủa tên tuổi của Prométhé, kẻ đã lấy trộm chút lửa của Trời. Hãy nguyền rủa con người đã bày ra cái ná cao su cho trẻ con bắn đá vào trán ông khổng lồ… Trí Tuệ, đó là cái tai hại. Trí tuệ, đó là con rắn cuốn quanh thân cây đã làm cho chúng ta vĩnh viễn mất cõi thiên đường… Nói đến vai trò giáo dục, vai trò văn minh của các ông chủ xứ Đông Dương này, thưa các ông, điều ấy làm ta mỉm cười… Người ta đã quỳ lụy bái phục những vị “đem ánh sáng tới”, những vị “làm điều kỳ diệu ở Ấu Châu”… Cái gì kỳ diệu? Thực ra cái kỳ diệu đó là, chỉ trong một thời gian ngắn thôi, người ta đã có thể làm cho trình độ trí thức của người Nam đã thấp đi lại càng rơi vào chỗ cực kỳ dốt nát. Cái kỳ diệu đó là người ta đã có thể, trong một thời gian ngắn như thế, xô đẩy một dân tộc có tư tưởng dân chủ, ngã nhào vào tình trạng nô lệ hoàn toàn“. (Trần Văn Giàu, Sự Phát Triển Của Tư Tưởng ở Việt Nam Từ Thế Kỷ 19 đến Cách Mạng Tháng Tám, q2, t 311). Nguyễn An Ninh cũng là một trong những nhà trí thức tân học đầu tiên nghiên cứu Phật Học và hoàn thành một tác phẩm Phật Học quan trọng, cuốn “Phê Bình Phật Giáo”. Sau thời kỳ hoạt động sôi nổi từ 1923 đến 1926, Nguyễn An Ninh bị ở tù trong thời gian 1926-1927, sau đó Ông về nghiên cứu Phật Giáo. Trên bàn làm việc của Ông, có một cái chuông, một cái mõ, Ông cạo trọc đầu và đi chân không.Ông nghiên cứu Phật Giáo qua tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức và các hoạt động Phật Giáo trong nước. Cuốn Phê Bình Phật Giáo xuất bản năm 1937 là kết quả của sự nghiên cứu này. Tựa đề của cuốn sách, 70 năm sau cũng không có ai dám viết một cuốn sách Phật Học có tựa đề thách thức và can đảm như vậy. Mục đích và phương pháp luận còn mới lạ, táo bạo hơn, đó là “so sánh Phật Giáo với thời đại của nó để chỉ chỗ hay, chỗ đúng hơn của nó đối với các thuyết khác và so sánh Phật Giáo với thời đại này để chỉ sai lầm của Phật Giáo“. Tác phẩm này được giới trí thức, giới chính trị cũng như giới Phật Giáo chú ý đặc biệt. Nhưng không gây sóng gió và tranh luận suốt nhiều năm trời như những tác phẩm của Thích Thiện Chiếu.Đối với Tăng, Ni, Phật Tử thập niên 30, những tư tưởng Phật Học của Thích Thiện Chiếu là những tiếng sét ngang tai. Ngày nay đọc lại, chắc chắn quý vị tăng sĩ, cư sĩ và Phật Tử cũng không khỏi giựt mình, chấn động và suy nghĩ. Những tư tưởng này, được viết từ thập niên 30, ngày nay, cuối thập niên 90, vẫn còn mới, còn táo bạo, còn chứa đầy sức nặng của đá tảng và sức nổ của sấm sét. Thích Thiện Chiếu là tinh hoa sáng chói của Phật Giáo trong thập niên 20, 30. Ông đã đi tiền phong trong mọi lãnh vực chấn hưng và hiện đại hóa Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ 20 này. Ta phải đứng trên một đỉnh núi cao, mới hy vọng nhìn thấy những cái gì chưa ai nhìn thấy, những cái gì nằm khuất sau dãy núi cao. đó có thể là những dãy núi cao hơn, hay là một đại dương mênh mông hay là một bình nguyên rực rỡ. Thích Thiện Chiếu là một ngọn núi cao của Phật học và Phật Giáo Việt Nam trước đệ nhị thế chiến. Ta hãy đứng trên đỉnh núi cao ngất, hùng tráng này để nhìn rõ một đỉnh núi cao ngất, hùng vĩ khác, là Cư sĩ, Bồ Tát, Giáo Chủ Huỳnh Phù Sổ. |
|Muc Luc| |Ch.1| |Ch.2| |Ch.3| |Ch.4| |Ch.5| |Ch.6| |Ch.7| |Ch.8| |Ch.9| |Ch.10| |TK|
NHỮNG MẪU CHUYỆN VỀ ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
|
Ðức Huỳnh Giáo Chủ Vương Kim
Ðức Huỳnh Giáo Chủ
Vương Kim
Ðức Phật, Hoàng thiên lịnh giáng trần,
Huỳnh gia chuyển kiếp lập đời Tân.
Giáo truyền đạo Thích dìu sanh chúng,
Chủ ý chọn người vẹn Tứ ân.
(Hình Tác giả: Vương Kim Phan Bá Cầm)
Phần I:
HÀNH TRẠNG
Thiên thứ nhứt
Giai đoạn ra đời mở đạo
Thiên thứ hai
Giai đoạn hoạt động đấu tranh
Thiên thứ ba
Giai Ðoạn Vắng Mặt
Phần II:
SỰ NGHIỆP
Thiên thứ tư
Sự Nghiệp Về Mặt Ðạo
Tôn Phái Phật Giáo Hòa Hảo
Thiên thứ năm
Sự Nghiệp Về Mặt Ðời:
Công nghiệp cách mạng
Bộ Ðội Nguyễn Trung Trực
Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng
Cùng một tác giả: Long Hoa xuất bản – Tận Thế và Hội Long Hoa (1952) – Đức Phật Thầy Tây An (1953) (hiệp với Đào Hưng) – Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo (1954) (hiệp với Thanh Sĩ) – Ðời Hạ Ngươn (1960) – Đời người dướI ánh sáng Đạo Phật (1960) – Bửu Sơn Kỳ Hương (1966) – Hành sử Đạo Nhân (1970) – Tu Hiền (1972) – Đời Thượng Ngươn (1973) – Pháp Môn Tịnh Độ (1973) – Tại Sao Ta Phải Tu (1974) Dân Xã Tùng Thư– Chánh trị thường thức (1956) – Tinh thần cán bộ (1971) – Lập trường Dân Xã Đảng (1971) |
MUC LUC | CHƯƠNG 1 | | CHƯƠNG 2 | | CHƯƠNG 3 | | CHƯƠNG 4 | | CHƯƠNG 5 | | CHƯƠNG 6 | | CHƯƠNG 7 | |CHƯƠNG 8 | | CHƯƠNG 9 | | CHƯƠNG 10 | | CHƯƠNG 11 | | CHƯƠNG 12 |
| CHƯƠNG 13 | | CHƯƠNG 14 | | CHƯƠNG 15 | | CHƯƠNG 16 | | CHƯƠNG 17|
Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔvà Phật Giáo Thời ÐạiLê Hiếu Liêm
Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔvà Phật Giáo Thời ÐạiLê Hiếu Liêm
|Muc Luc| |Ch.1| |Ch.2| |Ch.3| |Ch.4| |Ch.5| |Ch.6| |Ch.7| |Ch.8| |Ch.9| |Ch.10| |TK|
[BHH430] [PGHH] [THƯ VIỆN PGHH]
|