Monthly Archives: November 2014

Hãy nhìn những gì Trung Quốc làm, đừng nghe họ Tập nói

Hãy nhìn những gì Trung Quốc làm, đừng nghe họ Tập nói

xi-and-peng

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận-Bình và Bành phu nhân được tặng quà, là một con thú hiếm, tại Tasmania, Australia

Courtesy of examniner.com.au

Những lời cường điệu và tựa đề lớn trên báo chí sau bài diễn từ của ông Tập Cận-Bình trước quốc hội và Thỏa hiệp Tự do Mậu dịch Trung Quốc- Australia là điều dễ hiểu. Ông họ Tập quảng bá lời bảo đảm về ý hướng của Trung Quốc, trong khi thỏa hiệp kia mở ra cơ hội kinh tế lớn lao cho Australia.

Nhưng điều khó hiểu là người ta thường không vạch rõ được cái rỗng tuếch trong những ý kiến của ông để lấy đó soi xét thực tế bạo tàn của chủ nghĩa Cộng Sản Trung Hoa, và để nhận ra là có một xứ Trung Quốc nhỏ hơn, không được nhìn nhận, là Đài Loan, mà Australia dễ dàng có những tương đồng chiến lược, chính trị và kinh tế.

Sự vụng về của họ Tập để lôi Australia khỏi liên minh với Hoa Kỳ dễ được nhận ra, nhưng điều lạ là người ta tỏ ra không sẵn lòng đối chiếu những lời tuyên bố dễ nghe của ông với những hành động thực tế của tàu bè hải quân Trung Quốc gây bất ổn và thường xuyên ức hiếp (nước khác) ở biển Hoa Nam.

Lời lẽ của ông Tập rằng Trung Quốc kiên định lập trường hoà bình hoàn toàn đối nghịch với những lời xác định chủ quyền hầu hết diện tích biển Hoa Nam, với cuộc tranh chấp với Đài Loan, Brunei, Việt Nam, Philippines và Malaysia, cũng như cuộc tranh chấp với Nhật Bản về quần đảo Điếu Ngư/ Senkakư trên biển Hoa Đông.

Lời khẳng định hoà bình không xứng hợp với lời từ chối sự từ bỏ hành động sử dụng võ lực để lấy lại Đài Loan, vùng lãnh thổ mà Hoa lục gọi là một tỉnh phản loạn.  Hơn nữa, cách đối xử của Trung Quốc đối với các tín đồ Pháp Luân Công, người Tây Tạng và người Uighurs ở tỉnh Tân Cương đã có tiếng là hung ác, tàn bạo.

Trung Quốc có lãnh thổ rộng lớn và thủy lộ giao thông huyết mạch phải bảo vệ và phòng thủ, nhưng mức tăng tỉ lệ chi phí quốc phòng là hai con số cho mỗi năm trong hai mươi năm qua khó lòng chứng tỏ một quốc gia quyết tâm giải quyết hoà bình các cuộc tranh chấp. Chi phí quốc phòng của Trung Quốc chỉ bằng khoảng một phần tư chi phí quốc phòng của Mỹ nhưng lực lượng bộ chiến, hải quân và không lực của Trung Quốc thật khổng lồ, gia tăng và trang bị tốt. Ai cũng biết đó là sự thật.

Thủ tướng Tony Abbot tỏ ra hài lòng với lời nói như quẳng đi của họ Tập rằng Trung Quốc sẽ trở nên dân chủ vào giữa thế kỷ này! (là lúc ông Tập đã rời sân khấu chính trị). Tuy nhiên mặc dù Trung Quốc thành công đáng kể trong việc lôi hằng triệu người thoát cảnh nghèo đói, những thực tế cố định sau đây vẫn là sự thực của xứ sở ấy:

Trước hết, Trung Quốc là một quốc gia Cộng Sản độc đảng, trong đó các lãnh tụ bước ra (chính trường) từ khối chính trị ưu tú khép kín, không bị đòi hỏi phải tìm lấy tính hợp pháp từ những cuộc bầu cử công khai, mở ngỏ.  Quân Ủy Trung ương là trụ cột thiết yếu cho sự ổn định trong hệ thống chính trị.

Thứ nhì, Trung Quốc là một “chiến binh” gián điệp mạng toàn cầu trơ trẽn, lén lút xông phá vào các hệ thống computer của các chính phủ và doanh nghiệp nước ngoài với những nỗ lực không mệt mỏi, để chiếm lợi thế chiến lược và kinh doanh trên các đối thủ cạnh tranh. Australia cũng nằm trong số nhiều quốc gia tiên tiến phương Tây đã nếm mùi tấn công mạng được tìm ra là phát xuất từ Trung Quốc.

Thứ ba, như báo cáo của Human Rights Watch năm nay ghi nhận, Trung Quốc áp đặt hạn chế độc đoán trên các quyền tự do phát biểu, lập hội, hội họp và tôn giáo. Trung Quốc cấm đoán các công đoàn lao động độc lập và các tổ chức nhân quyền,duy trì sự kiểm soát của đảng Cộng sản trên tất cả các cơ chế tư pháp.

Ở Trung Quốc, báo chí, internet, ấn bản giấy, những nghiên cứu học thuật và sản phẩm nghệ thuật đều bị kiểm duyệt, như biện pháp cần thiết để bảo toàn an ninh xã hội. Các công dân bất đồng chính kiến, kể cả những nghệ sĩ như Ngải Vị Vị và khôi nguyên Nobel Lưu Tiểu Ba đểu bị ngược đãi và thường ngồi tù. Sinh viên Trung Quốc du học ở hải ngoại bị theo dõi chặt chẽ, ở Úc cũng vậy. Thứ tư, theo Tổ chức Ân xá quốc tế, Trung Quốc hành quyết mỗi năm hằng ngàn người  – hơn cả con số bị các nước còn lại trên thế giới hành quyết. Bắc Kinh từ chối tiết lộ con số, nhưng thói “ghiền” sử dụng đến tiểu đội hành quyết và giây thòng lọng đã khiến Hoa Lục trở thành một trong những nước ác nghiệt nhất thế giới.

Chừng đó quá đủ (để đối chiếu) với lời tuyên bố hoà bình của họ Tập. Để mà giao dịch với “gã lớn con”

Tất nhiên không một thực tế nào kể trên lại là lý do để bác bỏ quan hệ chính trị và kinh tế với Trung Quốc. Đó là, như ông Tập nói, một gã to lớn, một sừc mạnh quân sự và kinh tế đang lớn mạnh thêm và là đối tác thương mại chính yếu của Australia. Nhưng người Úc không nên để quyền lợi kinh tế làm quên đi hay làm mù quáng trước những thực tại ở Trung Quốc.

Nhu cầu chính trị thực tiễn chỉ để cho Australia (và những nước khác) sự chọn lựa ít ỏi, phải đón nhận chính sách “một nước Trung hoa” đã dìm Đài Loan trong bóng tối, cố phấn đấu để được thấy và nhìn nhận như một nền dân chủ sôi động, văn minh và đầy văn hóa kể từ lúc chấm dứt lệnh thiết quân luật từ năm 1987.

Chỉ bằng một nửa Tasmania (nơi họ Tập đến thăm) với dân số 23, 4 triệu, Đài Loan thật tao nhã, rộng lượng, vô cùng khôn ngoan sắc sảo và là thị trường xuất khẩu hàng thứ sáu của Úc, thị trường nhập khẩu hàng Úc lớn thứ 14. chính sách “một nước Trung Hoa” không được chiếm ưu tiên hơn trong nhận thức tốt đẹp của Úc về mối giao hảo với Đài Loan.

Giới học giả và các nhà chính sách của Úc không đồng ý về việc liệu Trung Quốc có đủ sức mạnh vững bền để thách đố quyền lực toàn cầu của Mỹ hay không. Trong khi đó Australia cần những mối quan hệ kinh tế và chiến lược khả quan với Trung Quốc, khi Hiệp ước mậu dịch tự do được áp dụng, nhưng người Úc cần hiểu rõ rằng nụ cười của ông họ Tập che dấu nhiều dữ kiện hãi hùng về xứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Advertisement
Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Làm thế nào VN có ‘những cú thay đổi ngoạn mục’?

Làm thế nào VN có ‘những cú thay đổi ngoạn mục’?
Cập nhật: 01:30 | 27/11/2014

“Một nền văn hóa âm tính đậm đặc, với những con người lúc nào cũng chỉ lo “ổn định” luôn có một lực lượng bảo thủ không cho phép phái cấp tiến làm gì tới nơi tới chốn” – GS.TSKH Trần Ngọc Thêm.

>> Sẽ ra sao nếu Đại tướng quân Hai Lúa vẫn ở VN?

>> Con đường đưa Việt Nam tới thịnh vượng

>> Người Việt: Chỉ trích “lạnh xương” và “khen cho chết”

LTS:“Văn hóa âm tính”, đặc tính “biến đổi từ từ” chi phối ra sao đến sáng tạo, đổi mới tại VN? Làm sao khắc phục điều này?… Đó là nội dung Phần 2 cuộc trò chuyện của Tuần Việt Nam với GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học tự nhiên Nga, Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương, Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng Trường Đại học KHXH&NV thuộc ĐHQG-HCM.

Xem lại Phần 1: Người Việt ưa nịnh, thích ‘dìm’: Tác hại đến đâu?

Trần Ngọc Thêm, Đại tướng quân, văn hóa, Trần Quốc Hải, xe tăng, Campuchia, Myanmar, Trung Quốc, Vạn lý Trường thành
GS. TSKH Trần Ngọc Thêm – Ảnh: Phạm Thành Long/ Documentary.vn

Mặt trái của sự ổn định kéo dài

Ở phần trước , GS đã bàn đến những tác động của tư duy “vừa phải” đến tính cách cá nhân, cộng đồng, xã hội. Ở tầm vĩ mô hơn, tác động của nó ra sao đến bộ máy, cơ chế vận hành đất nước?

GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Xuất phát từ tư duy “vừa phải”, nền văn hóa âm tính luôn hướng tới sự ổn định. Ổn định là đứng yên, mọi sự thay đổi, phát triển đều bị chống lại, bị kìm hãm. Và cả một bộ máy, cả cơ chế đều hướng tới sự ổn định, phục vụ và gìn giữ cho sự ổn định đó. Cái mới xuất hiện thường bị dị ứng, bị xem là “có nguy cơ mất ổn định” rất cao.

Muốn phát triển thì phải có đột phá, thay đổi hiện trạng, và phải có người giỏi để làm việc này. Nhưng như tôi đã nói, văn hóa âm tính của ta sẽ “kéo” người giỏi nào muốn nổi trội lên. Và toàn bộ người Việt chúng ta đều thấm nhuần đức khiêm tốn, coi đó không chỉ là đạo đức mà còn là cách sống.

Các nền văn hóa dương tính như phương Tây không như vậy. Họ được giáo dục sự trung thực, nói về mình như mình thực có. Họ quan niệm tự cao tuy có thể vấp ngã, nhưng sau vấp ngã sẽ học kinh nghiệm mà đi lên, còn khiêm tốn thì không.

Ai cũng ngại thay đổi, xáo trộn. Vì vậy, khi chọn người chẳng hạn, người ta sẵn sàng “bầu” cho người không có gì đặc sắc nhưng được cái là lúc nào cũng vui vẻ, xởi lởi, hòa đồng với mọi người, ai nói gì cũng gật.

Dường như đặc tính thích “ổn định” này cũng chi phối lớn đến quan niệm về tài năng và cách sử dụng người tài ?

GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Cũng vì thích sự ổn định nên người VN thường thích người dễ bảo, thích nghe lời. Trong gia đình thì thích “con ngoan”, biết vâng lời chứ không phải biết sáng tạo. Còn trong nhà trường thì muốn “trò giỏi”, nhưng “giỏi” ở đây phải hiểu là học thuộc bài, làm văn cũng phải theo văn mẫu của thầy cô đưa ra.

Cho nên người VN với bản tính linh hoạt chỉ giỏi sáng tạo vặt, biến báo, kiểu Trạng Quỳnh, thích ăn may kiểu Trạng Lợn, nói dóc kiểu Ba Phi, còn sáng tạo kiểu làm máy bay, tầu ngầm, chế tạo xe tăng thì nhẹ sẽ bị coi là “có vấn đề”.

Với nền giáo dục như thế này thì làm sao đào tạo cho ra những những nhà phát minh, nhà bác học, nhà văn hóa lỗi lạc?

Trong quản lý xã hội, nhiều lãnh đạo ở các cấp đều thường chọn cấp phó, người giúp việc thấp hơn mình từ một đến vài “cái đầu”. Người ta cho rằng làm như thế thì mới đảm bảo “ổn định”, trước hết là “ổn định” vị trí của mình.

Cách làm đó vô hình trung đã tạo nên một “cơ chế loại bỏ người tài” ra khỏi bộ máy. Thậm chí trong xã hội cũng không có đất cho họ dụng võ vì những ràng buộc đạo đức, pháp luật luôn chống lại nguy cơ làm “mất ổn định”.

Nghe ông nói tôi không khỏi liên hệ đến những câu chuyện Đại tướng quân hay phát minh, sáng chế Hai lúa được nhắc đến rất nhiều gần đây?

GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Phải, với những đặc điểm tôi đã phân tích, không có gì ngạc nhiên khi thấy những sáng chế, phát minh hay sáng kiến cải tiến khoa học kỹ thuật trong nước ít khi được quan tâm, ngược lại có khi còn bị o ép.

Như chuyện ông Phan Bội Trân ở TP.HCM bỏ tiền của, trí tuệ công sức ra chế tạo tàu ngầm mi-ni mà phải “lên bờ xuống ruộng” khi cho chạy thử nghiệm…

Như chuyện ông Hải máy bay, có thể có vị Bộ trưởng sẽ trả lời rằng việc này là do “cơ chế bên Campuchia thoáng hơn ở ta… Và ta không có nhu cầu sửa chữa xe quân sự vì đã có đơn vị chuyên môn làm rồi”. Điều này có thể đúng. Nhưng nó cũng đồng thời cho thấy nền văn hóa âm tính luôn kìm hãm sáng tạo, dị ứng với thay đổi đã chi phối mạnh mẽ đến mức nghiệt ngã vào hệ thống quản lý xã hội.

Nguy cơ của nền văn hóa âm tính vô cùng lớn nếu không biết phát huy mặt mạnh và khắc phục những mặt trái của nó, thoát ra khỏi “vũng lầy ổn định” của nó.

Không thể “cứ từ từ” mãi

Theo GS, chắc phải có giải pháp nào cho căn bệnh âm tính, truyền thống biến động từ từ của chúng ta chứ?

GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Nghiên cứu lịch sử, tôi nhận thấysự “biến động từ từ” như một quy luật ấy có thể thúc đẩy cho nhanh hơn lên nếu có được sự kết hợp ở những mức độ khác nhau của ít nhất 3 trong số 4 điều kiện: (1) Cuộc sống của toàn dân chúng rơi vào (hoặc gần như rơi vào) tình trạng đặc biệt khó khăn, bế tắc; (2) Có một vị minh quân, minh chúa, tức một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, sáng suốt, tận tâm tận lực vì dân; (3) Có một cú hích từ bên ngoài và (4) Mỗi người nhìn ra xung quanh thấy người khác khá hơn mình và bản thân mình có nhu cầu thay đổi hiện trạng.

Trong đó, điều kiện 1 thuộc về văn hóa vật chất – mưu sinh; điều kiện 2 thuộc về văn hóa chính trị; điều kiện 3 thuộc về ngoại lực; điều kiện 4 thuộc về văn hóa tính cách, tinh thần.

Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trường hợp đột biến nhờ hội tụ ở mức rất cao ba điều kiện đầu: 1/ Cuộc sống của dân chúng dưới thời thực dân, phát xít Nhật rơi vào bước đường cùng, hàng triệu người chết đói. 2/ Cái tên “Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh” có sức mạnh như một lời hiệu triệu thu hút quần chúng. 3/ Chiến tranh thế giới kết thúc, Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện.

Công cuộc Đổi mới năm 1986 là một trường hợp đột biến khác cũng hội đủ cả ba điều kiện đầu, nhưng ở mức thấp hơn: 1/ Cuộc sống kinh tế của cán bộ nhân dân ba miền ở mức rất khó khăn. 2/ Tổng bí thư Trường Chinh là một nhà lãnh đạo có uy tín và tận tâm tận lực vì dân. 3/ Công cuộc Cải tổ (Perestroika) của Liên Xô cũng vừa lúc bắt đầu.

Nếu nói về “cú hích từ bên ngoài” thì hiện nay VN đang có rất nhiều đấy chứ, thưa GS? Chẳng hạn VN hiện đang là thành viên của nhiều tổ chức lớn trên thế giới và khu vực như WTO, AFTA, NAFTA, v.v… tất cả đều yêu cầu ràng buộc VN phải cải cách, cải tổ theo hướng chung của thế giới?

GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Đúng là VN đang có những tác động bên ngoài, nhưng chúng chưa đủ sức tạo nên những thay đổi mang tính đột biến. Ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội lớn từ sau Đại hội 6 năm 1986.

Những năm 1990 là thời mà chính sách Mở cửa đã bắt đầu phát huy tác dụng, đời sống một bộ phận dân chúng khá lên đã kích thích toàn xã hội hừng hực, hứng thú làm giàu. Giai đoạn này, ngoài 3 điều kiện đầu cho sự phát triển đột biến của VN mà chúng tôi đã nói ở trên, điều kiện thứ 4 là “Mỗi người nhìn ra xung quanh thấy người khác khá hơn mình và bản thân mình có nhu cầu đó” đã hiện hữu ở mức cao.

Tuy nhiên, bước sang những năm 2000, dễ quan sát thấy rằng xã hội VN đã không còn sự phấn đấu hăng say như những năm 1990 nữa, dù VN đã hội nhập nhiều hơn, sâu rộng hơn với thế giới. Một bộ phận đáng kể trong cán bộ và dân chúng thấy rằng mình đã thoát khỏi tình trạng cùng cực và đã chuyển sang được trạng thái “trông lên thì chửa bằng ai, nhưng trông xuống thì chẳng ai bằng mình” nên đã hài lòng mà chững lại.

Trần Ngọc Thêm, Đại tướng quân, văn hóa, Trần Quốc Hải, xe tăng, Campuchia, Myanmar, Trung Quốc, Vạn lý Trường thành
Một tướng lĩnh Campuchia bên chiếc xe thiết giáp do cha con ông Hải chế tạo hoàn chỉnh. Ảnh: LĐO

Cần một hệ giá trị mới

Vào thế kỷ 17, 18 tiếp xúc với văn minh phương Tây, chúng ta cũng có cơ hội cải cách rất lớn giống như Nhật Bản. Tự Đức là vị vua thông minh, có tài, có năng lực và tầm nhìn song vẫn thất bại, trong khi Nhật hoàng lúc ấy là cậu bé 3 tuổi mà cuộc cải cách của Nhật lại thành công. Chúng ta có thể rút ra kinh nghiệm gì từ thất bại này?

GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Khu vực Đông Bắc Á vốn thuộc loại hình trung gian chuyển tiếp. Văn hóa của Nhật có độ dương tính cao nhất trong số các quốc gia ở đây nên người Nhật không làm thì thôi, còn khi đã nhận thức ra thì họ làm tới nơi tới chốn. Trong lịch sử, họ thường có cách làm là tiếp thu cái mới rồi đóng cửa lại thẩm thấu, sửa chữa, nâng cấp rồi phát huy.

Trước kia, Nhật đã từng tiếp nhận văn hóa Trung Hoa theo cách như thế. Rồi khi người Nhật phát hiện họ thua châu Âu, họ bắt tay cải cách ngay. Từ “thoát Á luận” cho đến “thoát Á, nhập Âu”, người Nhật đã đề ra mục tiêu nhận thức rất rõ ràng, thoát hẳn khỏi cái cũ, nhập hẳn vào cái mới chứ không lơ lửng. Bên cạnh vua Minh Trị, cả dân tộc Nhật, cả nền văn hóa đều cùng chung mục đích và quyết tâm nên họ tiếp thu và cải cách thành công.

Còn chúng ta, do thuộc loại hình văn hóa âm tính cho nên trong khi vua Tự Đức và vài nhân vật khác có tầm nhìn rộng và xa hơn nên thoát được, nhưng lại bị số đông bảo thủ kiềm xuống, lôi kéo trở lại. Cả triều đình không muốn thoát thì một mình vua cũng không làm được gì hơn.

Một nền văn hóa âm tính đậm đặc, với những con người lúc nào cũng chỉ lo “ổn định” luôn có một lực lượng bảo thủ không cho phép phái cấp tiến làm gì tới nơi tới chốn.

Bởi vậy mà VN rất khó có thoát ra được hoàn cảnh mà ta bị đặt vào, để có được những cú thay đổi ngoạn mục như Nhật Bản hay Hàn Quốc là các quốc gia Đông Bắc Á thuộc loại hình văn hóa trung gian. Dù có bậc minh quân như Tự Đức hay ai khác mà nếu chưa hội đủ cả 4 điều kiện như tôi đã đề cập thì cũng rất khó.

Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, cả thế giới ngày nay trở thành một ngôi nhà chung. Ắt rằng, chúng ta sẽ còn có nhiều “cú hích” tác động vào. Vậy theo GS, để tận dụng thời cơ quốc tế hóa cao độ như hiện nay, chúng ta phải làm gì nhằm tạo được sự thay đổi đột phá mạnh mẽ cho kịp với các nước?

GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Từ những điều trình bày trên, có thể thấy rất rõ nguyên nhân sự trì trệ sâu xa là nằm trong văn hóa và con người. Chính bởi vậy mà Nghị quyết 33 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã đặt vấn đề “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.

Nhưng chỉ Nghị quyết không thôi thì chưa đủ. Để xây dựng và phát triển văn hóa – con người thì cần phải thay đổi hệ giá trị. Thực ra, hệ giá trị VN tự nó đang biến động rất mạnh. Vấn đề là cần sớm nhận thức được xu hướng biến động, góp phần điều chỉnh và định hướng sự thay đổi đó từ tự phát thành tự giác, theo hướng có lợi nhất, để tạo nên sự phát triển đột biến một cách sớm nhất.

Trong một Chương trình KH & CN trọng điểm cấp Nhà nước mà tôi đang làm chủ nhiệm, chúng tôi nghiên cứu và phân tích kỹ sự biến động của hệ giá trị VN trong quá trình chuyển đổi từ văn hóa làng xã đến văn hóa đô thị, từ văn hóa nông nghiệp đến văn hóa công nghiệp, từ văn hóa khép kín đến văn hóa trong thời kỳ toàn cầu hoá và hội nhập. Một trong những trọng tâm là phân tích kỹ nguyên nhân dẫn đến biết bao nhiêu thói hư tật xấu của con người VN hiện nay. Bởi lẽ muốn thay đổi để đi lên, để phát triển thì phải xóa hết các nguyên nhân gây ra những tật xấu đó.

Chẳng hạn, tính cộng đồng tự nó không xấu, nhưng cộng đồng kiểu làng xã là gây ra sự cào bằng, bệnh sĩ diện, bệnh thành tích…; tính cộng đồng tình cảm gây ra tật thiếu ý thức, không tuân thủ pháp luật…; sự kết hợp của nhiều đặc trưng gây ra quốc nạn dối trá, tham nhũng… Vì vậy phải thay đổi cộng đồng tình cảm bằng cộng đồng lý trí; thay cộng đồng làng xã bằng cộng đồng xã hội, tức coi trọng quyền lợi xã hội chứ không phải của một làng hay của một nhóm lợi ích, v.v… Trên cơ sở đó đề xuất một hệ giá trị VN mới.

Tuy nhiên, đề xuất một hệ giá trị VN mới mới chỉ là bước khởi đầu. Để đưa hệ giá trị đó vào cuộc sống, để tạo ra những con người VN mới thì cần có quyết tâm rất cao của cấp lãnh đạo cao nhất và sự đồng lòng của toàn dân. Được như vậy, VN mới có thể thoát ra khỏi căn bệnh trì trệ của truyền thống văn hóa âm tính, tạo nên một bước phát triển đột biến mới trong giai đoạn hiện đại.

Xin cảm ơn GS!

Duy Chiến (thực hiện)

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Học giả Nga: Moscow nên tránh để Việt Nam thân Trung Quốc hay Mỹ

Học giả Nga: Moscow nên tránh để Việt Nam thân Trung Quốc hay Mỹ

HỒNG THỦY

30/11/14 07:00

(GDVN) – Cả Mỹ và Trung Quốc đều muốn Việt Nam là đối tác độc quyền của họ, còn Nga có thể giúp Việt Nam thành một quốc gia trung lập vững chắc.

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh và Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov.

Học giả Anton Tsvetov thuộc Hội đồng Quan hệ quốc tế của Nga, phụ trách mảng truyền thông và quan hệ chính phủ ngày 24/11 phân tích trên trang web của Hội đồng Nga bình luận, mặc dù các văn bản chính thức của Moscow đều xem Hà Nội là một đối tác chiến lược quan trọng ở châu Á, thực tế mối quan hệ song phương sau sự tan rã của Liên Xô đã rơi vào trì trệ và tạo điều kiện cho Mỹ, Trung Quốc tìm kiếm chỗ đứng vững chắc ở Việt Nam.

Với Nga một lần nữa mong muốn đạt được một sự hiện diện có ý nghĩa ở châu Á – Thái Bình Dương, lúc này là thích hợp để Moscow phân tích vai trò của quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam trong chiến lược khu vực của Nga. Quan hệ Việt – Nga xích lại gần nhau hơn nữa dường như chẳng liên quan gì đến lợi ích của Mỹ hay Trung Quốc. Học giả Anton Tsvetov đặt câu hỏi: “Đối tác chiến lược Nga – Việt là sự thật hay hư cấu? Quan hệ Nga – Việt có thực sự đáp ứng các tiêu chuẩn chính thức của một quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hay không?”

Quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện Nga – Việt, sự thật hay hư cấu?

Học giả này cho rằng, hiện tại vẫn chưa có một định nghĩa nào rõ ràng về “quan hệ đối tác chiến lược” nên việc trả lời câu hỏi này không đơn giản, nhưng dường như không có cảm giác xấu nào trong quan hệ Việt – Nga, kể cả về mặt nhà nước lẫn xã hội và người dân 2 nước.

Điều 87 của Quan điểm chính sách Đối ngoại Liên bang Nga năm 2013 tuyên bố, Moscow theo đuổi mục tiêu “tăng cường quan hệ đối tác chến lược với Việt Nam” được thiết lập bởi một sắc lệnh của Tổng thống Nga tháng 5 năm 2012. Tài liệu này xếp Việt Nam đứng sau các nước Cộng đồng các quốc gia độc lập CIS, Trung Quốc, Ấn Độ, 2 miền Triều Tiên và Nhật Bản, mặc dù thực tế các văn bản chính sách năm 2012 xếp Việt Nam ở vị trí thứ 3 trong danh sách ưu tiên.

Năm 2010, quan hệ đối tác chiến lược Việt – Nga được thêm 2 từ “toàn diện”, trong khi Quan điểm Chính sách đối ngoại Liên bang Nga gọi mối quan hệ nước này với Trung Quốc là “toàn diện, bình đẳng, tin tưởng và dựa trên tương tác chiến lược”. Mối quan hệ Nga – Ấn Độ được xác định là “đối tác đặc quyền”. Điều đó cho thấy tồn tại nhiều cấp bậc khác nhau trong quan hệ đối tác chiến lược của Nga, và Việt Nam thì ở khá xa “đỉnh chiến lược”.

Nhưng nếu coi mối quan hệ đối tác chiến lược như một khả năng tương thích giữa các lợi ích quốc gia cơ bản, phương pháp tiếp cận tương tự với hầu hết các vấn đề hiện tại, tương tác trên các diễn đàn quốc tế thì quan hệ Nga – Việt gần như hoàn hảo. Tuy nhiên hai bên vẫn còn những điểm khác biệt, trong đó vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông là một ví dụ.

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh và Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì.

Mối quan hệ đối tác chiến lược thường được đo bằng khối lượng thương mại và mức độ tổng thể của quan hệ kinh tế – thương mại. Trong lĩnh vực này quan hệ Nga – Việt với tổng kim ngạch thương mại hai chiều chỉ khoảng 3 tỉ USD, kém xa quan hệ thương mại Nga – Trung, Nga – Hàn và ngay cả Việt – Trung.

Nga – Việt nên xem lại chiến lược không liên kết?

Chính sách đối ngoại của Nga luôn ưu tiên cho việc tạo ra một môi trường tích cực cho phát triển kinh tế bền vững. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương có liên quan, điều này có nghĩa là an ninh khu vực và sự ổn định có liên hệ với việc vùng lãnh thổ phía Đông của Nga hòa nhập vào hệ thống kinh tế Đông Á. Mục tiêu này của Nga sẽ đứng vững nếu Việt Nam trở thành một quốc gia có ảnh hưởng trong khu vực với một chính sách đối ngoại độc lập tương đối.

Cả Mỹ và Trung Quốc đều muốn Việt Nam là đối tác độc quyền của họ, còn Nga có thể giúp Việt Nam thành một quốc gia trung lập vững chắc. Một Việt Nam mạnh hơn trong khu vực và trong ASEAN có thể tăng cường chiến lược của hiệp hội này, phân phối đồng đều hơn ảnh hưởng của ASEAN như một khối trung lập được sự hỗ trợ của Nga.

Trong bối cảnh cạnh tranh Trung – Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương ngày càng tăng, nguy cơ đối đầu trong khu vực ngày càng lớn, Nga dường như là một nước lớn theo đuổi chính sách cân bằng tương tự như chính sách của Việt Nam. Điều này khiến 2 nước chia sẻ một chương trình chung và Việt Nam có thể trở thành quốc gia đầu tiên “bay vào quỹ đạo Nga mà không phải thân Trung Quốc hay thân Mỹ”.

Nếu không phải Hoa Kỳ hay Trung Quốc thống trị ở châu Á – Thái Bình Dương, Nga và ASEAN tất nhiên thích ảnh hưởng của mình lớn hơn là vai trò của một bên trung lập. Nga cũng cực kỳ quan tâm đến việc duy trì nhu cầu đối với các công nghệ và sản phẩm mà Moscow có lợi thế cạnh tranh, bao gồm khai thác khoáng sản, năng lượng, hạt nhân, thủy điện, không gian, hợp tác quân sự quốc phòng.

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh và Ngoại trưởng Mỹ John Kerry.

Ở khía cạnh này, vấn đề tranh chấp lãnh thổ, căng thẳng ở Biển Đông có thể “hữu ích” với Moscow khi họ thấy được sự quan tâm của người Việt đối với công nghệ quân sự và vũ khí của Nga. Đồng thời Moscow cũng không thể để các tranh chấp ở Biển Đông bùng phát thành một cuộc xung đột quân sự hay chiến tranh toàn diện.

Sự đổ vỡ của hòa bình và ổn định ở Biển Đông thì tuyến hàng hải huyết mạch qua eo biển Malacca sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nền kinh tế châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và tất cả các quốc gia này là thị trường chính của Nga. Một cuộc đụng độ quân sự ở Biển Đông cũng gây ra sự phân cực trong khu vực khiến các nước hoặc là ngả theo Hoa Kỳ, hoặc là thân Trung Quốc, cả hai đều bất lợi cho Nga.

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Trung Quốc phản công, Mỹ sẵn sàng chưa?

Trung Quốc phản công, Mỹ sẵn sàng chưa?

fiery-cross-reef

Không ảnh chụp hoạt động tân tạo của Trung Quốc ở Đá Chữ Thập

Courtesy of IHS

Phía nam, chỉ xâm lấn Việt Nam, vì sao?

Hôm thứ ba Philippines bất chấp  lời kêu gọi của Trung Quốc, đã đưa ra toà xét xử 9 ngư dân Trung Quốc đánh bắt rùa biển trong hải phận tranh chấp, tuyên phạt mỗi người 102 ngàn đô la hoặc phải chịu 6 tháng tù.  Hình như Việt Nam chưa làm như vậy bao giờ, trong khi Trung Quốc vẫn bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc. Lý do vì sao?

Có thể là vì giữa Việt Nam với Trung Quốc còn có mối quan hệ giữa hai đảng Cộng sản cầm quyền. Hai nước đã nỗ lực giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải dựa trên mối quan hệ đó hơn là trên căn bản mối quan hệ ngoại giao thông thường. Khi đã giải quyết một cách khác thường như vậy thì cũng có thể có những cam kết khác thường mà ngoài hai đảng Cộng sản ra không ai được biết.

Nhưng giả sử có sự cam kết như vậy thì vì sao phía Trung Quốc vẫn bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc mà không cần một phán quyết tư pháp nào, và Việt Nam phải đóng tiền mới chuộc được dân của mình về?

Thực ra, không thể đoan chắc hai bên có cam kết điều gì và cam kết ra sao; nhưng hành động độc đoán như vậy của Trung Quốc mới cho thấy rõ bản chất hiếp bức nước nhỏ của một xứ chuyên hành xử theo kiểu bá quyền nước lớn. Và qua đó người ta cũng thấy cái thế khó xử của Việt Nam, ở vị thế một nước nhỏ yếu hơn nhiều mà lại nằm vào vị trí “môi hở răng lạnh”, luôn luôn hứng chịu mọi sự áp chế từ hằng ngàn năm nay.

Tuy nhiên, nhìn lại, Miến Điện cũng ở vào vị trí sát cạnh nước lớn Trung Quốc không khác gì Việt Nam, nhưng tại sao Bắc Kinh không hiếp bức được như đối với Việt Nam?

Vị trí địa lý và mối quan hệ giữa Miến Điện với Trung Quốc, so với quan hệ Trung Quốc-Việt Nam xem ra có những điểm khác biệt rất căn bản. Trước hết về yếu tố địa chính trị, Miến Điện không nằm ở vị trí chắn đường thuỷ lộ và vùng biển phía nam của Trung Quốc.  Địa thế biên giới Miến-Hoa rất hiểm trở, không dễ tiến quân xâm chiếm. Miến Điện vốn là một vương quốc hùng mạnh, nhiều lần có chiến tranh với Thái Lan. Cho đến thế kỷ trước Trung Quốc cũng chưa phát triển được như ngày nay, nên mãi đến nay Trung Quốc mới nhắm vào Miến Điện vì cần đầu tư vào những đập thủy điện ở Miến, và muốn có những căn cứ nhìn ra Ấn Độ Dương.

Trong khi đó giữa Việt Nam với Trung Quốc, ngày nay thì mang nặng mối quan hệ giữa hai đảng Cộng sản, và từ xưa đã có những đặc tính văn hoá, xã hội, văn minh, chủng tộc gần gũi. Dân tộc Lạc Việt vốn thuộc giòng Bách Việt, là chủng tộc phát xuất từ chủng cổ Mã Lai (Indonésien- theo Pháp Ngữ) là giống người giỏi nghề biển, thạo nghề rừng, từng chiếm hữu từ quần đảo Indonesia đến tận bờ nam sông Dương tử.

Chủng Cổ Mã Lai của giòng Bách Việt về sau lại hoà nhập với Đại chủng Á từ phía bắc sông Dương Tử tràn xuống, từ khoảng thời gian cách nay chừng 5 ngàn năm, thành chủng Nam Á. Qua mấy ngàn năm giòng Bách Việt và chủng Nam Á bị dân tộc Trung Hoa từ phía bắc thôn tính và đồng hoá dần, chỉ còn lại xứ Đại Việt giữ được giòng giống và lãnh thổ ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, là phần còn lại của xứ Âu lạc sau thời gian bị đẩy lùi xa về phía nam. Vào thời kỳ đó các dân tộc ở từ địa giới Chiêm Thành trở đi, cả cao nguyên miền Trung Việt Nam ngày nay với Thuỷ Lục Chân Lạp và Nam Thái, Miến Điện… vẫn thuộc chủng Cổ Mã Lai, mãi về sau Tây nguyên, Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp mới hoà nhập với dân tộc Việt.

Dân tộc Việt và dân tộc Nam Trung Hoa có nguồn gốc chủng tộc gần gũi như vậy, nên  người Trung Hoa luôn luôn muốn thu phục chủng tộc Việt mà họ coi là dân Bách Việt thoát ly sự đồng hoá. Ngược lại, người Việt không hề coi mình là đồng chủng với Trung Hoa, khi cao nguyên Tây bắc và Trung phần vẫn có cư dân gần như thuần chủng cổ Mã Lai. Và do đó vào những thời kỳ hưng thịnh và chiến thắng như trong triều đại ngắn ngủi của vua Quang Trung, nhà vua cũng từng ngỏ ý muốn chiếm lại lãnh thổ cổ xưa của Việt tộc từ Lưỡng Quảng rồi lựa thế lấn dần tới bắc Hồ Nam, vì cổ sử của Việt Nam ghi rõ Động Đình Hồ trên sông Dương tử là nơi phát xuất truyền thuyết Lạc Long Quân.

Như vậy ta mới thấy mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc rất tế nhị và cũng rất phức tạp, vừa thân thiết như cùng huyết thống vừa hận thù nhau truyền kiếp, khiến Việt Nam luôn luôn phải chịu cái ách và phải giải cái ách bành trướng xâm lấn của Trung Quốc từ ngày lập nước Văn Lang cách nay mấy ngàn năm.

Không thể chung đường

Dù sao chăng nữa, đó cũng không phải lý do Trung Quốc đòi cưỡng chiếm cả biển Đông, và không phải chỉ biển Đông mà còn cả thị trường châu Á và xa hơn nữa, theo con đường tơ lụa thế kỷ 21 mà Bắc Kinh đang quảng bá.

Muốn thế, Trung Quốc phải tìm mọi cách không chế Nhật Bản và đẩy bật ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ ra khỏi châu Á. Có phải nhân lúc Hoa Kỳ vướng bận ở Trung Đông và Ukraine, mà Chủ tịch Tập Cận Bình vừa khai mào cuộc phản công ở hai hội nghị thượng đỉnh APEC và G-20?  Trong khi Hoa Kỳ còn “mắc cạn” với Hiệp định TPP cho thị trường tự do châu Á Thái Bình Dương thì ông Tập Cận Bình tung ra đề nghị về FTAAP tạo thị trường tự do cho cả 21 quốc gia APEC. Sau đó ở Brisbane, Australia, hai nhà lãnh đạo Úc-Hoa hân hoan công bố hiệp ước thị trường tự do song phương, trong ý đồ rõ ràng của Bắc Kinh nhằm lôi kéo châu Đại dương ra khỏi mối quan hệ với Hoa Kỳ cùng liên minh quân sự Mỹ-Nhật-Úc-Ấn được cho là đang manh nha hình thành.

Tử những hành động của Trung Quốc, khung cảnh thế giới ngày nay tựa như tình hình thế giới hồi gần giữa thế kỷ 20  khi các thế lực quân sự kinh tế hùng mạnh đi đến chỗ đối đầu nhau, tranh giành thuộc địa, giành thị trường, nguồn nguyên liệu, khởi phát chiến tranh…

Nhưng vẫn còn mối hy vọng rằng ngày nay thế giới đã học được nhiều bài học lớn về chiến tranh trong thế kỷ 20, con người cũng lãnh hội được bài học về tinh thần thực tế, không đặt nặng lý tưởng về chủ nghĩa, hay quốc gia, chủng tộc, tôn giáo. Tinh thần thực tế là ý hướng theo đuổi cuộc sống hoà bình, thịnh vượng, hạnh phúc bằng mọi cách, mọi giá, không đặt nặng tự ái dân tộc, quốc gia, chỉ nhắm tới phúc lợi kinh tế và cuộc sống hưng vượng. Ngoại trừ những khu vực ở Trung Đông và Phi châu còn bị kích động và ép buộc bởi những kẻ hoạt đầu chính trị, tôn giáo cực đoan, còn hầu hết Âu Á Mỹ chỉ nhắm đến cạnh tranh kinh tế trong hoà bình như mục tiêu hàng đầu.

Tuy vậy, trở lại vấn đề biển Đông, người ta thấy có nhiều điều kém lạc quan vì chính sách bành trướng ngang nhiên của Trung Quốc.

Tuần qua Philippines đã hành động rất tế nhị và khôn khéo. Khi đưa ngư dân Trung Quốc ra tòa xử, Philippines đã giữ được thể diện quốc gia và cho Trung Quốc thấy rõ lập trường bảo vệ chủ quyền, đồng thời khi tuyên phán một bản án để có thể thả ngay các bị cáo, Manila vẫn tỏ ra chấp thuận và thi hành yêu cầu của Bắc Kinh đòi trả tự do vô điều kiện cho ngư dân của họ.

Tuy nhiên, nói đến cạnh tranh hoà bình, người ta thấy những hành động nhằm giải quyết hoà bình của Philippines và Việt Nam không hề ngăn được Trung Quốc trong sách lược vươn cánh tay dài ra tới Trường Sa, nằm trong chiến lược bành trướng xa hơn nữa để thực hiện con đường tơ lụa thế kỷ 21. Trung Quốc đang bồi đắp đá Chữ Thập mà họ chiếm của Việt Nam ở Trường Sa thành căn cứ có sân bay và hải cảng, cùng lúc cũng tân tạo nhiều cồn đá thành đảo lớn và những căn cứ kiên cố ở giữa Trường Sa, sau khi Đài Loan tái tạo đảo Ba Bình thành căn cứ quân sự có đường băng cho máy bay lên xuống.
Cùng lúc, tại Diễn đàn Hương Sơn ở Bắc Kinh, Trung Quốc cao giọng quảng bá cho cái gọi là cấu trúc an ninh mới dựa trên quan niệm “người châu Á lo việc an ninh cho châu Á”.

Mùi khói súng?

Song song với màn khai pháo kinh tế thương mại ở thượng đỉnh APEC và G-20, có phải Bắc Kinh đang mở màn trận phản công chiến lược và quyết đẩy Hoa Kỳ ra khỏi châu Á?

Hoa Kỳ dường như đã dự phòng tình huống nay từ khi thực thi chiến lược chuyển trục sang châu Á. Nhưng Bộ trưởng quốc phòng Chuck Hagel lại vừa từ chức sau những trì trệ về an ninh quốc phòng ở Iraq, Afghanistan, giữa lúc Liên Bang Nga quyết tâm giành chiếm Crimea và đông Ukraine. Bộ trưởng Hagel là người thay mặt cho Hoa Kỳ khẳng định chính sách chuyển trục sang châu Á trong những lúc hành pháp Mỹ không rảnh tay để khẳng định lập trường ở những hội nghị liên quan đến an ninh quốc phòng châu Á. Sự ra đi của ông khiến dậy lên mối lo ngại Hoa Kỳ lơ là vói châu Á vì tình hình Trung Đông và Ukraine.

Tuy nhiên, xét lại, chính sách chuyển trục ấy đã được hình thành từ đầu nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, nhưng chỉ được chính thức công bố cách nay ba năm. Bộ trưởng Hagel từng thay mặt hành pháp Mỹ khẳng định chính sách chuyển trục, chính điều đó đã nói lên rằng Hoa Kỳ không lúc nào lơ là với châu Á.

Vậy phải chăng nay là lúc Hoa Kỳ điều chỉnh, củng cố chiến lược an ninh quốc phòng để hỗ trợ chính sách kinh tế thương mại nhằm giành thị trường ở châu Á, đối đầu với Trung Quốc, đồng thời củng cố phòng thủ châu Âu?

Mùi khói súng dường như phảng phất đâu đây. Trung Quốc phát triển hùng mạnh và nhanh chóng không khác Đức, Nhật thời xưa, gợi lại ký ức rất mới của loài người về những cuộc chiến tranh giành chiếm thuộc địa và thị trường từ cuối thập niên 1930.  Đức vươn nhanh như Phù Đổng chỉ trong hơn hai thập niên sau thể chiến thứ nhất, rồi khai chiến ở châu Âu, sau đó Nhật tung quân chiếm các thuộc địa của Anh-Pháp-Mỹ ở Đông Nam Á, các hạm đội hàng không mẫu hạm dưới bóng cờ Mặt Trời tung hoành khắp Thái Bình Dương… Cho đến năm 1945 thì khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh, mà Việt Nam là một xứ sở nạn nhân đau thương nhất, mãi đến 1975 mới tắt đi mồi lửa nồi da xáo thịt. Nhưng người Việt lại tiếp tục đổ máu vì Trung Quốc, do hậu quả của những sai lầm tồn tại từ thời chiến tranh lạnh, trong khi mối thương đau của cả dân tộc chưa hề có dấu hiệu ngưng lành.

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Trung Quốc chi 3 tỷ USD mua tên lửa tối tân của Nga

Trung Quốc chi 3 tỷ USD mua tên lửa tối tân của Nga

Bắc Kinh ký một hợp đồng trị giá hơn 3 tỷ USD với Moscow để trở thành khách hàng nước ngoài đầu tiên sở hữu hệ thống tên lửa phòng không S-400 Triumph.
hệ thống tên lửa phòng không tối tân S-400 Triumf 

Hệ thống tên lửa phòng không S-400 Triumph. Ảnh: Itar-tass

Thông tin trên vừa được báo Nga Vedomosti hé lộ hôm nay. Theo đó, từ đầu mùa thu, tập đoàn xuất khẩu vũ khí Nga Rosoboronexport và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã ký kết hợp đồng cung cấp cho Bắc Kinh ít nhất 6 tiểu đoàn S-400.

Hai bên đã thương thảo về hợp đồng này nhiều năm. Năm 2011, Bộ Quốc phòng Nga cho biết việc xuất khẩu S-400 không thể diễn ra trước 2016 vì hệ thống vũ khí này cần được cung cấp cho lực lượng vũ trang Nga trước tiên.

Nhiều quốc gia khác như Arab Saudi, Belarus, Libya hay Thổ Nhĩ Kỳ đều nhiều lần bày tỏ mong muốn có S-400 trong kho khí tài nhưng các cuộc thảo luận với Nga không thành công.

Hồi tháng 4, Tổng thống Nga Putin đã phê duyệt việc bán vũ khí này cho Trung Quốc. Đến tháng 7, chánh văn phòng tổng thống, Sergei Ivanov, cho biết Trung Quốc có thể trở thành khách hàng nước ngoài đầu tiên của hệ thống tên lửa phòng không mới.

S-400 Triumph, với phạm vi hoạt động 400 km, là sản phẩm của công ty Almaz-Antei Concern, dựa trên hệ thống phòng không tầm xa S-300 mà Trung Quốc là một trong những khách hàng lớn. Rosoboronexport đã hoàn thành hợp đồng gần đây nhất về cung cấp 15 tiểu đoàn tên lửa phòng không S-300PMU-2 cho Trung Quốc vào năm 2010.

RIA Novosti dẫn lời giám đốc Trung tâm Chiến lược Nga Ivan Konovalov tin rằng quân đội Trung Quốc có thể triển khai S-400 ở phía nam để kiểm soát không phận Đài Loan và một số hòn đảo nằm trong các vùng biển tranh chấp. Dù ngành công nghiệp quân sự của Trung Quốc đã mạnh lên đáng kể trong 15 năm qua, theo các chuyên gia, trong một số phân khúc họ vẫn chưa thể chứng minh được khả năng.

Anh Ngọc

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

The Diplomat: Chẳng ai đứng về phía Trung Quốc ở Biển Đông

PHÂN TÍCH – TƯ LIỆU

23:40 NGÀY 28/11/2014

The Diplomat: Chẳng ai đứng về phía Trung Quốc ở Biển Đông

Hành động hung hăng và phi lý khiến cho Trung Quốc đơn độc ở Biển Đông. Trong khi đó, nhiều quốc gia trên thế giới đã thể hiện sự ủng hộ đối với Việt Nam, đặc biệt là Nhật và Mỹ.

Theo The Diplomat, việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương – 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi tháng 5 vừa qua, đã trở thành một phép thử để xác định xem ai đang đứng về lẽ phải và được nhiều quốc gia ủng hộ trong các vấn đề về Biển Đông.

Trong khi hầu hết cộng đồng quốc tế duy trì quan điểm trung lập ở Biển Đông, thì một số quốc gia đã công khai ủng hộ Việt Nam dưới nhiều hình thức, trong đó rõ ràng nhất là Nhật Bản và Mỹ.

The Diplomat: Chẳng ai đứng về phía Trung Quốc ở Biển Đông
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Một bên gồm Việt Nam, Mỹ và Nhật Bản muốn duy trì sự cân bằng, hòa bình và ổn định trong khu vực vốn đã tồn tại trong 2 thập kỷ qua, còn một bên chỉ có mình Trung Quốc muốn sử dụng sức mạnh “cơ bắp” để lấn lướt các nước nhỏ hơn nhằm khẳng định những tuyên bố chủ quyền phi lý của mình.

Các quan điểm hiện nay đều cho rằng vấn đề Biển Đông là vấn đề tranh chấp lãnh thổ do những xung đột về tài nguyên giữa các quốc gia ven biển. Nguyên nhân cho quan điểm trên xuất phát từ thực tế, Biển Đông rất giàu trữ lượng năng lượng và các loại quặng khoáng sản. Một số chuyên gia dự đoán trữ lượng dầu mỏ và khí đốt ở Biển Đông bằng khoảng 80% trữ lượng của Saudi Arabia. Biển Đông là một trong những vựa cá lớn nhất thế giới, chiếm tới 1/10 sản lượng đánh bắt cá toàn thế giới.

Trung Quốc đưa thêm 3 giàn khoan vào Biển Đông

Ngoài giàn khoan “Nam Hải số 9” dự kiến vào Biển Đông, Trung Quốc dự tính triển khai thêm 3 giàn khoan khác vào vùng biển này nhằm đẩy mạnh hoạt động thăm dò dầu khí tại khu vực.

Tuy vậy, quan điểm đó đã tạo ra ngõ cụt, không thể làm sáng tỏ những tính toán và động cơ của các bên có liên quan. Sự thật là, bên cạnh giá trị kinh tế, Biển Đông còn mang giá trị chiến lược to lớn với nhiều quốc gia.

Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền một cách phi lý với gần như toàn bộ Biển Đông bằng tấm bản đồ mà nước này tự nghĩ ra mang tên “bản đồ đường lưỡi bò”.

Các nhà hoạch định chiến lược và giới phân tích Trung Quốc xem Biển Đông là “chuỗi đảo đầu tiên”.  Nó đóng vai trò quan trọng đối với quốc phòng Trung Quốc.

Đối với Việt Nam, Biển Đông còn có vị trí quan trọng hơn. Nếu Trung Quốc coi Biển Đông là sân sau thì với Việt Nam, Biển Đông là cửa ngõ phía trước.

Biển Đông không chỉ có giá trị chiến lược với các quốc gia ven biển mà còn với các cường quốc khu vực và quốc tế. Các tuyến đường vận chuyển giữa Ấn Độ với Thái Bình Dương, các đường giao thông trên biển đi qua Biển Đông chiếm tới gần một phần ba giá trị thương mại của thế giới và chịu trách nhiệm trung chuyển một phần hai tổng lượng vận chuyển dầu khí toàn cầu.

Ngoài ra, đối với Trung Quốc và Mỹ, Biển Đông được ví như một chiếc “dây cương”. Ai nắm được “dây cương” này thì sẽ có một vị trí kiểm soát tối cao ở Tây Thái Bình Dương, trở thành một trụ cột vô cùng quan trọng trong khu vực Đông Nam Á.

Bài học Philippines: Mất bãi cạn vì tin Trung Quốc

Thời tiết khắc nghiệt là lý do phù hợp để các căng thẳng trên biển hạ nhiệt. Nhưng Trung Quốc từng lợi dụng thời tiết để qua mặt Philippines và chiếm bãi cạn Scarborough.

Chiến lược của Việt Nam

Theo The Diplomat, Việt Nam đang theo đuổi nhiều phương pháp để đối phó với Trung Quốc trải dài từ quyền lực cứng tới quyền lực mềm bao gồm: tăng cường sự hiện diện ở các khu vực thuộc chủ quyền, quốc tế hóa các vấn đề Biển Đông, đối thoại với Trung Quốc, hiện đại hóa quân đội.

The Diplomat: Chẳng ai đứng về phía Trung Quốc ở Biển Đông
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (bên trái) và Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị trong cuộc gặp tại Myanmar hôm 8/8/2014, nhân dịp dự Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 47.

Việt Nam tăng cường sự hiện diện cả quân sự và phi quân sự ở các khu vực thuộc chủ quyền của mình trên Biển Đông. Từ năm 1988, Việt Nam đã thiết lập các đơn vị đồn trú quân sự thường trực trên 11 vùng đất, đảo, đá khác trên quần đảo này. Chậm mà chắc, Việt Nam tiếp tục củng cố và tăng cường sự hiện diện. Năm 2012, Việt Nam thành lập lực lượng kiểm ngư để tuần tra các vùng biển của mình.

Thay vì liên minh với các cường quốc, Việt Nam đã tập trung vào quốc tế hóa các vấn đề ở Biển Đông, kêu gọi cộng đồng quốc tế ngăn chặn sự hung hăng của Trung Quốc. The Diplomat cũng nhận định, Việt Nam ngày càng chủ động và quyết tâm trong việc thu hút sự chú ý của thế giới về Biển Đông.

Việt Nam duy trì và tận dụng hiệu quả tất cả các kênh để đối thoại với Trung Quốc như kênh giữa hai chính phủ, hai đảng, hai quân đội.

Ngoài ra, với mục tiêu giải quyết các vấn đề dựa trên luật pháp quốc tế và một cách hòa bình, Việt Nam luôn tự kiềm chế trước những hành động hung hăng của Trung Quốc.

Dù vậy, Việt Nam vẫn tiếp tục hiện đại hóa lực lượng không quân và hải quân, trong đó phải kể đến đội gồm 6 tàu ngầm thuộc lớp Kilo.

Mỹ sẽ ‘bóp nghẹt yết hầu’ trên biển của Trung Quốc?

Thay vì dùng chiến lược “Tác chiến không – hải nhất thể”, Mỹ có thể lợi dụng ưu thế địa lý để cản trở xuất, nhập khẩu thương mại, làm suy thoái nghiêm trọng nền kinh tế Trung Quốc.

Cam kết của Mỹ

Kể từ năm 2010, các nhà lãnh đạo Mỹ nhiều lần tuyên bố Washington có lợi ích quốc gia cốt lõi đối với tự do hàng hải ở Biển Đông và luôn thúc giục các bên giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình và tuân theo luật pháp quốc tế. Cả nền kinh tế Mỹ và vị thế của Mỹ trên toàn cầu cũng như trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương phụ thuộc vào tự do, hòa bình tại các tuyến đường hàng hải trên Biển Đông.

The Diplomat: Chẳng ai đứng về phía Trung Quốc ở Biển Đông
Tổng thống Mỹ Obama (bên phải) trong một cuộc gặp với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Trong thực tế, nếu các tuyến đường trên Biển Đông bị phong tỏa thì nền kinh tế Mỹ sẽ bị tác động đáng kể nhưng không đến nỗi quá khủng khiếp. Ít hữu hình hơn, cái chịu tác động mạnh nhất là sức mạnh của Mỹ trên toàn cầu. Biển Đông đóng vai trò vô cùng quan trọng, là chìa khóa để Washington duy trì trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu.

Tuy vậy, mối liên hệ giữa Biển Đông và lợi ích của Mỹ không phải lúc nào cũng rõ ràng và hữu hình. Do đó, Washington sẽ rất khó thuyết phục dân Mỹ tin vào tầm quan trọng của Biển Đông đối với các lợi ích cốt lõi của họ.

Trong trường hợp có xung đột xảy ra, khả năng Mỹ tham chiến ở Biển Đông bị giới hạn nhiều trong bối cảnh Mỹ vừa trải qua cuộc chiến tranh rất tốn kém ở Iraq và một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Trung Quốc đã tận dụng tình thế này và đang tăng cường hành động nhằm thay thế vị trí của Mỹ trong khu vực.

Vai trò của Nhật Bản

The Diplomat: Chẳng ai đứng về phía Trung Quốc ở Biển Đông
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Lợi ích của Nhật Bản ở Biển Đông chủ yếu là các tuyến đường hàng hải cũng như những lợi ích có được trong một trật tự do Mỹ dẫn đầu. Nếu chiếm được quyền kiểm soát Biển Đông, Trung Quốc có thể kiểm soát 60% nguồn cung năng lượng của Nhật Bản và có thể thay thế vai trò lãnh đạo của Mỹ trong khu vực.

Một trật tự khu vực do Trung Quốc dẫn đầu sẽ có thể ít tự do hơn và không đem lại nhiều lợi ích cho Nhật Bản.

Do vậy, theo The Diplomat, Nhật Bản đang sẵn sàng ủng hộ Việt Nam chống lại sự hung hăng của Trung Quốc bằng cách cung cấp các tàu tuần tra và nhiều hỗ trợ khác cho Việt Nam.

Ngoài ra, Nhật Bản có thể đóng vai trò trung gian ở Biển Đông để tạo điều kiện cho việc hình thành một nhóm các nước có chung mục đích ngăn cản sự bành trướng của Trung Quốc và duy trì hiện trạng ổn định trong khu vực.

The Diplomat cho rằng, chỉ có sự đoàn kết giữa các nước như Việt Nam, Philippines, Mỹ, Nhật mới có thể ngăn chặn được những chính sách hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông.

‘Nhật có thể cùng Việt Nam, Philippines đối phó Trung Quốc’

Tokyo có thể kết hợp với Manila và Việt Nam để chống lại hành động tuyên bố chủ quyền phi lý ngày càng ngang ngược của Bắc Kinh, tờ Ming Pao của Hong Kong đưa tin.

Theo Phạm Khánh/Infonet

BÌNH LUẬN

NỘI DUNG

tối thiểu 10 chữ tiếng Việt có dấu không chứa liên kết

Gửi bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

THẾ GIỚI

6/20/2014 2:34:00 PM

Trung Quốc đưa thêm 3 giàn khoan vào Biển Đông

Ngoài giàn khoan “Nam Hải số 9” dự kiến vào Biển Đông, Trung Quốc dự tính triển khai thêm 3 giàn khoan khác vào vùng biển này nhằm đẩy mạnh hoạt động thăm dò dầu khí tại khu vực.

Reuters trích thông tin trên trang web của Cục Hải sự Trung Quốc cho hay, Trung Quốc dự tính triển khai giàn khoan “Nam Hải số 2” và “Nam Hải số 5” tại vùng biển giữa miền nam Trung Quốc và quần đảo Đông Sa (Pratas) do Đài Loan kiểm soát. Giàn khoan “Nam Hải số 4” sẽ hoạt động gần bờ biển Trung Quốc.

Mặc dù trang web của Cục Hải sự Trung Quốc không nêu rõ chủ sở hữu của các giàn khoan này, song khẳng định 3 giàn khoan sẽ xuất hiện tại các vị trí theo dự định của họ vào ngày 12/8.

Trung Quốc tính đưa thêm 3 giàn khoan vào Biển Đông. Ảnh: Xinhua.
Trung Quốc tính đưa thêm 3 giàn khoan vào Biển Đông. Ảnh: Tân Hoa Xã.

Thông báo của Cục Hải sự Trung Quốc xuất hiện trong bối cảnh giàn khoan “Nam Hải số 9” dự kiến đến cửa vịnh Bắc Bộ trong hôm nay 20/6.

Tờ Thời báo Hoàn cầu dẫn lời ông Zhuang Guotu, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Đại học Hạ Môn (Trung Quốc) coi việc Trung Quốc triển khai các giàn khoan trái phép là một “động thái chiến lược”.

“Việc tăng số lượng giàn khoan chắc chắn sẽ tạo tâm lý căng thẳng cho Philippines và Việt Nam”, ông Zhuang tuyên bố đầy khiêu khích.

Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) từng tuyên bố, họ sẽ triển khai 4 dự án ở phía tây và phía đông của Biển Đông trong nửa cuối năm 2014.

Tuy nhiên, người ta chưa rõ liệu 4 giàn khoan này có thuộc một phần của dự án của CNOOC hay không. Trong khi đó, người phát ngôn của CNOOC từ chối bình luận.

Hơn 10 tàu hải cảnh TQ lượn quanh bãi đá tại Trường Sa

Không quân Philippines phát hiện 10 đến 12 tàu cảnh sát biển Trung Quốc đang di chuyển rất nhanh để hỗ trợ các tàu nạo vét, cải tạo đất phi pháp ở các bãi đá thuộc Trường Sa.

Thông tin về 4 giàn khoan mới được đưa ra trong bối cảnh Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Kể từ khi đưa giàn khoan trái phép tới vùng biển Việt Nam, Trung Quốc không những thường xuyên phủ nhận những hành vi gây hấn của mình ở Biển Đông mà ngược lại còn xuyên tạc sự thực gây bất lợi cho Việt Nam.

Ngày 13/6, Vụ phó Vụ Biên giới và Hải đảo thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc Dịch Tiên Lương, khẳng định Bắc Kinh không bao giờ điều các lực lượng quân sự đến khu vực hạ đặt giàn khoan dầu Hải Dương-981 ở Biển Đông. “Tôi có thể nói rõ rằng, từ ngày 2/5 tới nay và ngay cả khi khi hoạt động thăm dò của giàn khoan hoàn tất, chúng tôi đã, đang và không bao giờ cử lực lượng quân sự tới đó. Bởi vì chúng tôi đang thực hiện các hoạt động dân sự cũng như thương mại một cách bình thường”, ông Dịch Tiên Lương ngang ngược tuyên bố trong một cuộc họp báo.

Ông Dịch trắng trợn cho rằng: “Việt Nam hiện có 61 tàu ở khu vực trên, trong khi số tàu của Trung Quốc là 71 chiếc, bao gồm cả tàu chính phủ và các tàu phụ trợ”. Theo ông này, số lần mà tàu Việt Nam đâm vào tàu Trung Quốc ở vùng biển gần giàn khoan Hải Dương-981 là 1.547 lần.

Ngay lập tức, một quan chức cấp cao của Mỹ tại Washington đã bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc khi cho rằng đó là những lời “nguỵ biện lố bịch” và khẳng định, Bắc Kinh đã sử dụng lực lượng không quân và hải quân cũng như lực lượng bảo vệ bờ biển “để đe dọa các nước khác”.

Ông nhấn mạnh: “Trung Quốc đã duy trì sự hiện diện quân sự lớn mạnh và liên tục gần giàn khoan dầu kể từ ngày 2/5 khi họ hạ đặt giàn khoan này, trong đó có máy bay trực thăng và chiến đấu cơ quần thảo phía trên và xung quanh giàn khoan. Hiện nay có nhiều tàu quân sự có mặt ở khu vực gần giàn khoan”.

Giải mã giàn khoan thứ hai Trung Quốc kéo vào Biển Đông

Giàn khoan “Nan Hai Jiu Hao” (Nam Hải số 9) mà Trung Quốc vừa kéo vào Biển Đông là loại bán chìm được đóng vào năm 1988 tại Hàn Quốc.

Hải Anh

BÌNH LUẬN

NỘI DUNG

tối thiểu 10 chữ tiếng Việt có dấu không chứa liên kết

Gửi bình luận

  • CHUNG TRẦN

    Rõ ràng đã đến lúc việt nam cần có những hành động mạnh mẽ và quyết liệt hơn việc chỉ dùng phương pháp ngoại giao khi Trung Quốc đang cố tình bơ đi những chứng cứ, luận điểm và kêu gọi của Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế đang hướng đến Trung Quốc. Có thể thấy đây không còn là 1 phép thử thái độ của Vn vs việc bị xâm chiếm như ban đầu đã nhận định mà nó đã leo thang lên thành hành động lấn chiếm và tự do khai thác cũng như thiết lập quân sự ở Biển Đông.

  • LUONH VAN

    Điều quan trọng chúng ta cần làm là chuẩn bị về mọi mặt như: 9 sách đối nội, đối ngoại, kinh tế, quân sự, y tế,,, Đặt biệt là tìm đầy đủ chứng cứ nhằm kiện TQ ra tòa án quốc tế càng nhanh càng tốt trong bối cảnh như hiện nay.

  • TRUNG VU DUC

    TQ càng ngày càng lấn tới, chúng ta sẽ xử lý như thế nào?

  • THẦY PHÁN

    Lâu rồi không thấy phong trào hướng về biển đông của các thanh niên trên facebook nữa nhỉ

  • IKA NAGA

    1 cái được 2 cái được thì 5 cái 10 cái đều được

  • NGUYỄN HOÀNG

    càng đọc tin tức càng thấy giận…..

  • MÔI TINH CHIEU MUA

    Tôi yêu Việt Nam

THẾ GIỚI

7/16/2014 2:51:00 PM

Bài học Philippines: Mất bãi cạn vì tin Trung Quốc

Thời tiết khắc nghiệt là lý do phù hợp để các căng thẳng trên biển hạ nhiệt. Nhưng Trung Quốc từng lợi dụng thời tiết để qua mặt Philippines và chiếm bãi cạn Scarborough.

Trong giai đoạn nửa đầu năm 2012, Philippines và Trung Quốc đụng độ căng thẳng tại bãi cạn Scarborough. Khi đó, Philippines kiểm soát bãi cạn này.

Vào giữa tháng 6/2012, bão Gutchol tiến về Philippines khiến biển động dữ dội. ngày 16/6/2012, Bộ Ngoại giao Philippines đăng thông báo của Ngoại trưởng Albert del Rosario: “Tổng thống Aquino ra lệnh cho đội tàu của hai đơn vị (Lực lượng tuần duyên Philippines và Cục Tài nguyên thủy sản) trở về cảng do điều kiện thời tiết xấu. Chính phủ sẽ đánh giá lại tình hình sau khi thời tiết tốt hơn”.

Trung Quốc di chuyển giàn khoan 981 khỏi vùng biển VN

Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC) tối qua thông báo hoạt động thăm dò dầu khí của giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam kết thúc.

Trước tuyên bố của Manila, đại sứ quán Trung Quốc tại Philippines nhanh chóng ra tuyên bố hoan nghênh: “Chúng tôi nghe tin Philippines triệu hồi các tàu chính phủ. Chúng tôi hy vọng hành động đó sẽ xoa dịu căng thẳng”. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa từng đưa ra tuyên bố công khai về việc rút tàu như Philippines.

Ảnh chụp bãi Scarborough từ trên không. Ảnh: globalsecurity.org
Ảnh chụp bãi Scarborough từ trên không. Ảnh: globalsecurity.org

Thông tin nhiễu loạn

Theo trang Rappler, Bộ Ngoại giao Philippines khẳng định cả hai nước nhất trí rút tàu. “Chúng tôi đã tiến hành nhiều cuộc tham vấn với phía Trung Quốc và chúng tôi cùng đi đến kết luận rằng cả hai bên sẽ rút tàu khỏi khu vực đầm phá (ở trung tâm bãi cạn)”, Raul Hernandez, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Philippines, phát biểu vào ngày 18/6/2012.

Ngày 18/6, Chính phủ Trung Quốc thông báo họ cử một tàu đến giúp các ngư dân rời khu vực bãi cạn do tình hình thời tiết xấu. Tuy nhiên, trong khi tàu rời Scarborough, Bộ Ngoại giao Trung Quốc chất vấn tuyên bố của Philippines.

“Chúng tôi tự hỏi cái mà Philippines gọi là sự đồng thuận với Trung Quốc về việc rút tàu xuất phát từ đâu. Trung Quốc hy vọng phía Philippines kiềm chế ngôn từ và hành vi”, Hồng Lỗi, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, nói ngày 18/6/2012. Ông khẳng định Trung Quốc không có kế hoạch rút tàu tương tự như Philippines.

“Phía Trung Quốc tiếp tục duy trì sự kiểm soát và cảnh giác tại vùng biển xung quanh bãi Hoàng Nham (tên mà Trung Quốc gọi bãi cạn tranh chấp)”, ông Hồng tuyên bố.

Theo tờ Sun Star, ông Hồng nhấn mạnh hoạt động duy nhất của phía Trung Quốc là cử tàu Nanhaijiu-115 đến bãi cạn để tiếp tế và hỗ trợ ngư dân cùng tàu cá của họ đánh bắt trong điều kiện biển động dữ dội.

Philippines kiện Trung Quốc: Tình huống nào có thể xảy ra?

Nước cờ tốt nhất mà Philippines đang thực hiện: Thách thức trực tiếp yêu sách biển của Trung Quốc trước một Tòa trọng tài của UNCLOS.

Các bản tin khác nhau về việc Trung Quốc rút tàu khỏi Scarborough. Ảnh: Rappler
Các bản tin khác nhau về việc Trung Quốc rút tàu khỏi Scarborough. Ảnh: Rappler

Động thái bất ngờ của Trung Quốc

Theo Inquirer, Bộ Ngoại giao Philippines ngày 26/6/2012 dẫn lời Bộ trưởng Del Rosario rằng: “Chúng tôi đã nhận tin rằng tất cả tàu cá Trung Quốc đều rời khỏi bãi cạn”.

Tuy nhiên, một ngày sau, Phó đô đốc Alexander Pama dùng những ảnh từ máy bay trinh sát để nói tàu Trung Quốc vẫn hiện diện tại đây. Theo ông Pama, tàu cá và tàu chính phủ Trung Quốc dường như đã rời khỏi đây nhưng sau đó chúng quay lại.

Trên thực tế, ít nhất 6 tàu Trung Quốc (gồm 3 tàu hải giám và 3 tàu ngư chính) vẫn hoạt động ở bãi cạn Scarborough đến ngày 20/6/2012, dù Philippines đã rút các tàu của họ về cảng. Ngày 26/6/2012, ít nhất 28 tàu Trung Quốc các loại hiện diện xung quanh đầm phá của bãi Scarborough, trái ngược với những bản tin trước đó rằng Bắc Kinh đã rút toàn bộ tàu.

Sau khi các tàu Philippines về cảng, Trung Quốc xây dựng một rào chắn tại lối vào nhỏ hẹp của bãi cạn. Các tàu chấp pháp của Trung Quốc canh gác để ngăn tàu Philippines quay lại. Sau đó, Philippines mất quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough cùng các tài nguyên xung quanh. Đội tàu Trung Quốc liên tục hiện diện tại khu vực từ thời điểm ấy.

Tháng 1/2013, Chính phủ Philippines quyết định khởi kiện tuyên bố chủ quyền phi lý của Trung Quốc ra Tòa án trọng tài quốc tế về Luật biển, với lý do họ “đã sử dụng mọi biện pháp ngoại giao với Trung Quốc nhưng bất thành”.

Video

Bộ Ngoại giao Trung Quốc xác nhận di chuyển giàn khoan

Minh Anh

BÌNH LUẬN

NỘI DUNG

tối thiểu 10 chữ tiếng Việt có dấu không chứa liên kết

Gửi bình luận

THẾ GIỚI

6/13/2014 8:04:00 AM

Mỹ sẽ ‘bóp nghẹt yết hầu’ trên biển của Trung Quốc?

Thay vì dùng chiến lược “Tác chiến không – hải nhất thể”, Mỹ có thể lợi dụng ưu thế địa lý để cản trở xuất, nhập khẩu thương mại, làm suy thoái nghiêm trọng nền kinh tế Trung Quốc.

Trung tâm đánh giá chiến lược và dự toán ngân sách Mỹ đã đưa ra khái niệm về “Tác chiến không – hải nhất thể” vào năm 2010.

Căn cứ vào khái niệm này, một khi nổ ra chiến tranh với Trung Quốc, quân đội Mỹ sẽ tấn công hệ thống giám sát tình báo và hệ thống phòng không của Đại lục, sau đó sẽ triển khai chiến dịch đánh phá các hệ thống tên lửa đạn đạo và tên lửa chống hạm trên lục địa của Trung Quốc, đồng thời đoạt quyền kiểm soát mạng lưới tác chiến và quyền khống chế trên không, trên biển và vũ trụ.

Tuy nhiên, theo tạp chí Lợi ích quốc gia, khái niệm “Tác chiến không – hải nhất thể” còn tồn tại một số vấn đề thiếu sót nghiêm trọng. Bài báo nêu rõ, cơ hội thành công trong ba lĩnh vực chính của khái niệm về “tác chiến không hải nhất thể” là “làm mù, quét sạch các đầu mối chỉ huy, kiểm soát và áp chế các hệ thống phóng tên lửa của đối phương” là rất nhỏ. Nó còn phải đối mặt với những rủi ro lớn từ các cuộc tấn công của Trung Quốc, khiến xung đột leo thang không thể kiểm soát.

Nhập mô tả cho ảnh
“Tác chiến không – hải nhất thể” dường như kém hiệu quả hơn việc siết chặt nguồn xuất – nhập khẩu của Trung Quốc.

Mỹ sẽ áp dụng chiến lược “Kiểm soát xa bờ” đối phó với Trung Quốc?

Bài viết của TNI đưa ra cảnh báo “Tác chiến không – hải nhất thể” sẽ đem lại quá nhiều bất trắc, hiệu quả chưa rõ ràng nhưng hậu quả thì đã có thể lường trước được là rất thảm khốc. Vì vậy, Mỹ không nên áp dụng chiến lược phiên lưu và manh động do giới quân sự đưa ra.

TNI đưa ra kiến nghị, Washington nên dùng “Kiểm soát xa bờ” như là biện pháp hiệu quả nhất hiện nay để đối phó với Bắc Kinh. Biện pháp này không mang tính chất công kích trực tiếp Trung Quốc, mà chỉ lợi dụng ưu thế địa lý để cản trở xuất, nhập khẩu thương mại, làm suy thoái nghiêm trọng nền kinh tế của Trung Hoa Đại lục.

Ưu điểm lớn nhất của chiến lược này là không phải mạo hiểm xuyên phá qua không phận trên biển và trên đất liền của Trung Quốc, giảm được nguy cơ xung đột leo thang thành chiến tranh hạt nhân.

Lầu Năm Góc dự đoán viễn cảnh Trung Quốc tấn công Đài Loan

Bộ Quốc phòng Mỹ vừa trình quốc hội báo cáo sức mạnh quân sự Trung Quốc, trong đó đề cập những khả năng có thể xảy ra nếu Bắc Kinh tái chiếm vùng lãnh thổ Đài Loan bằng vũ lực.

Bài viết phân tích, chiến lược này có ưu thế lớn trong việc lợi dụng các điểm yếu của quân đội Trung Quốc vì ngoài chuỗi đảo thứ nhất, năng lực tác chiến của quân đội nước này giảm xuống rõ rệt. Mỹ có thể tuyên bố, mỗi vùng biển là một khu vực cấm hành trình, tàu thuyền qua lại vùng biển này sẽ bị bắt giữ hoặc đánh chìm.

Bằng cách ngăn cấm tàu vận tải hàng hóa và tàu dầu qua lại, Mỹ có thể nhanh chóng làm cho kinh tế Trung Quốc suy thoái nghiêm trọng. Đối với Trung Quốc, xuất, nhập khẩu là vấn đề rất quan trọng. Xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào những tàu chở container lớn, bởi vì phí vận chuyển thấp, mà những tàu thuyền này và cả các tàu chở dầu rất dễ bị đánh chìm.

Một chuyên gia Trung Quốc ngày 10/6 bình luận trên tờ Thời báo Hoàn Cầu rằng, chính quyền Obama công khai tuyên bố họ không muốn gây trở ngại cho tàu thuyền tự do hải hành trên vùng biển quốc tế, nhưng hành động lại trái ngược khi công bố phong tỏa vùng biển giáp với Trung Quốc.

Tuy nhiên, chuyên gia này cũng ngạo mạn tuyên bố, dù là như vậy, chiến lược “Kiểm soát xa bờ” cũng không hề thuận lợi như Washington đã tưởng tượng. Mỹ có không ít các quốc gia đồng minh ở châu Á, nhưng đa số các quốc gia này không mấy hy vọng vào ô bảo hộ của Mỹ và không muốn “tự châm lửa đốt mình” vì lợi ích của Washington.

Hơn nữa, các chuyên gia Trung Quốc cho rằng, nếu như xuất, nhập khẩu của nước này bị ảnh hưởng sẽ phá hoại trật tự kinh tế toàn cầu hóa, Mỹ cũng không tránh khỏi thiệt hại, thậm chí nền kinh tế thế giới cũng không tránh khỏi những hậu quả nặng nề.

Căng thẳng Biển Đông đẩy chiến tranh Mỹ – Trung đến gần hơn?

Hành động đơn phương tranh chấp chủ quyền với các quốc gia láng giềng trong đó có Philippines, đồng minh thân thiết của Washington, có thể dẫn tới chiến tranh Trung – Mỹ.

TNI nhận định, người Trung Quốc dường như đã đánh giá quá cao giá trị nền kinh tế của mình trong bối cảnh những hành động hung hăng của nước này đã ảnh hưởng không nhỏ đến đầu tư vào thị trường Trung Quốc và đầu tư ra nước ngoài của doanh nhân nước này.

Một ví dụ điển hình là Nhật Bản. Trong năm 2013, Tokyo đã có những hành động quyết liệt đánh thẳng vào nền kinh tế của Trung Quốc như rút vốn đầu tư trực tiếp và chuyển dịch các cơ sở sản xuất của nước này từ Trung Quốc sang Myanmar và các nước láng giềng của Bắc Kinh, gây ra sự lo lắng rất lớn của các chuyên gia kinh tế nước này.

Nếu các nước lớn chấp nhận hy sinh lợi ích trước mắt, đồng loạt làm như Nhật, rút vốn đầu tư và chuyển các cơ sở sản xuất sang các nước láng giềng, hình thành một vòng cung kinh tế mở bao vây xung quanh một nền kinh tế bị phong tỏa của Trung Quốc.

Đồng thời các nước nhỏ, có tranh chấp trực tiếp với Trung Quốc chấp nhận mất một nguồn đầu tư, loại bỏ hoặc siết chặt quản lý các dự án đầu tư và đấu thầu quốc tế có yếu tố Trung Quốc thì Bắc Kinh khó có thể tiếp tục “tự kiêu”.

Trái ngược với quan điểm của giới chức quân sự và những chính khách “diều hâu”, nhận định của giới học giả đưa ra rõ ràng là hợp lý hơn. Các đòn đánh “điểm huyệt” về kinh tế vừa hiệu quả hơn lại vừa hỗ trợ đắc lực cho các biện pháp chính trị và quân sự nên nó phải trở thành biện pháp chủ đạo.

Categories: Biển Đông | Leave a comment

15 cách thức đơn giản giúp bạn sống khỏe mạnh

15 cách thức đơn giản giúp bạn sống khỏe mạnh
Đừng nghĩ “sống chết có số”, lối sống và cách ăn uống của bạn cũng góp phần không nhỏ kéo dài hay rút ngắn tuổi thọ. Hãy tham khảo những bí quyết đơn giản sau đây để giúp bạn sống khỏe hơn mỗi ngày.

1. 
Hãy cười nhiều hơn
“Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, nụ cười là phương thuốc chữa bệnh hiệu quả nhất. Bên cạnh việc cải thiện tinh thần, cười còn có tác động tích cực tới hormone của cơ thể. Một nụ cười sảng khoái còn duy trì hệ miễn dịch khỏe mạnh.

2. 
Đọc báo ngược
Tiến sĩ Marios Kyriazis, một chuyên gia về lão hóa ở Mỹ, cho biết việc đọc báo ngược có thể khiến bộ não của bạn có chút căng thẳng nhưng đồng thời cũng giúp bạn gia tăng tuổi thọ. Với một số việc làm “trái ngược” kiểu này chẳng hạn như: viết bằng tay không thuận, lập luận ngược lại với những gì bạn tin tưởng một cách nồng nhiệt, thậm chí nghe thứ âm nhạc mà bạn không ưa, bạn có thể tiến thêm một nấc thang tuổi thọ.
3.
Xả stress

Qua thời gian, stress có thể làm tăng nguy cơ cao huyết áp, bệnh tim và béo phì – tất cả những thứ này đều có thể cướp đi tuổi thọ của bạn. Stress rất dễ tích tụ lại, vì thế đừng cố giữ trong lòng.
Hầu hết mọi người đều coi tài chính cá nhân là lý do căng thẳng nhất, vì nó khiến họ cảm thấy không có quyền lực. Hãy thử thế này: Gửi một ít tiền trong một tài khoản ngân hàng riêng, an toàn trước những ham muốn mua túi mới, áo quần mới của bạn. Điều đó sẽ giúp bạn cảm thấy chắc chắn hơn về mặt tài chính và đỡ bị áp lực hơn.

 
4. Giảm vòng eo

Để biết bạn có thân hình khỏe mạnh, hãy đo chu vi vòng eo. Con số này nên nhỏ hơn một nửa chiều cao. Nếu bạn cao 1,6 mét, vòng eo không nên quá 80 cm. Muốn làm thon gọn vùng này? Hãy tránh các loại thực phẩm chế biến sẵn có nhiều trans fat. Các nghiên cứu cho thấy loại mỡ này thường tích trữ ở vùng bụng.

5. Ăn thực phẩm có màu đỏ

Ớt đỏ chứa nhiều vitamin C hơn cam, củ cải đỏ có chữa nitrat giúp thong thả mạch máu, cà chua có lycopene (một chất giúp chống oxy hóa mạnh mẽ) mà khi nấu chín, có thể giúp chống lại bệnh ung thư, tim mạch và một số vấn đề khác (???). Điều này đã được tiến sĩ Susan Jebb, thuộc Hội đồng Nghiên cứu Y khoa về dinh dưỡng ở Cambridge xác nhận. Vì vậy, nếu muốn sống thọ, hãy ưu ái các thực phẩm có màu đỏ!


6. Ăn chuối

Bạn có thể giảm nguy cơ đột quỵ và bệnh tim bằng cách đơn giản là “nạp” các loại thực phẩm giàu kali như chuối, nước ép trái cây và trái cây khô. Lượng kali cần được cho vào cơ thể hằng ngày là 3,5g. Để giảm huyết áp, bạn cần tới 4,7g kali – lượng kali được tìm thấy chính xác trong một quả chuối.


7. Tập ngồi xổm

Ngồi xổm được coi là bài tập tăng cường tất cả cơ bắp hiệu quả nhất (tương đương với một bài tập toàn thân). Tập ngồi xổm giúp bạn có thể nhanh chóng rời khỏi một chiếc ghế (hoặc rời bồn cầu) một cách nhanh chóng vào lúc tuổi già và ngăn ngừa té ngã.

8. Uống trà mỗi ngày

Uống trà mỗi ngày được chứng minh là giảm mức độ căng thẳng và giúp tăng tỷ lệ sống sót sau một cơn đau tim tới 28%. Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Y Harvard tin rằng chất chống oxy hóa trong trà có thể giúp các mạch máu thư thả.
Ngủ thêm một giờ
Chỉ cần đi ngủ thêm một giờ là có thể giúp giảm nguy cơ đau tim và đột quỵ của bạn trong ít nhất sáu tuần. Một nghiên cứu gần đây từ trường Kinh doanh Harvard cho thấy những người ngủ bảy tiếng hoặc ngủ ít hơn trong một ngày khi ngủ thêm một giờ có những tiến triển đáng kể về sức khỏe tim mạch. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết việc ngủ quá ít ảnh hưởng đến khả năng đối phó với các kích thích tố căng thẳng.

9. 
Cho cơ thể toát mồ hôi
Bạn muốn sống lâu? Hãy tập thể dục. Các nghiên cứu cho thấy tập thể dục ngoài trời có thể giảm 37% nguy cơ ung thư vú, 45% chứng rỗng xương và 12% bệnh tim.

11. Giấc ngủ ngon
Giấc ngủ giữ vai trò quan trọng đối với sức khỏe. Nó giữ cân bằng trong việc trao đổi chất, trí nhớ, học hành và khả năng miễn dịch. Việc tái tạo mô cũng diễn ra trong giấc ngủ thực sự làm cho da bạn trông đẹp hơn. Hormone cũng được điều hòa trong khi chúng ta ngủ, vì thế ngủ không đủ giấc có thể gây ra tác động bất lợi cho sức khỏe con người. Các quý ông muốn sống lâu thì đừng quá ham mê công việc, hay mải theo những cuộc vui mà làm mất đi giấc ngủ ngon của chính mình.

12. Ăn tỏi mỗi ngày
Nhiều người không thích tỏi do mùi hăng và hương vị giữ trong miệng rất lâu, nhưng nó lại là một trong những thực phẩm quan trọng giúp kéo dài tuổi thọ. Tỏi chứa một lượng lớn các chất chống đông máu, giúp cho tim hoạt động tốt. Nó cũng làm tăng cholesterol tốt trong cơ thể. Có hiệu quả tốt nhất khi ăn sống.


13. Sữa và sản phẩm sữa

Một ly sữa mỗi ngày giúp bạn tránh xa nếp nhăn, xương và móng tay mỏng, yếu. Nếu bạn không thoải mái với sữa, hãy thử dùng sản phẩm như sữa đông, sữa chua, bơ, phô mai, đậu phụ… Tất cả đều rất tốt cho hệ tiêu hóa và hệ miễn dịch. Sữa rất tốt cho tất cả nhóm tuổi và nhất là khi bạn bắt đầu lão hóa. Nó cung cấp tất cả dinh dưỡng và cũng làm cho bạn khỏe mạnh.

14. Dành thời giờ bên cạnh những người thân

Mối quan hệ cũng là một phần quan trọng của sức khỏe. Nó không những làm cho tình cảm của bạn với những người khác càng gắn bó mà còn tạo cơ hội cho bạn có thêm sự giúp đỡ khi cần, chẳng hạn như lúc cô đơn, lúc ốm đau, phiền muộn .v.v..Vì vậy, hãy dành thời giờ bên bạn bè và người thân để nuôi dưỡng tốt mối quan hệ, cải thiện sức khỏe và cuộc sống cho mình.

15. Hãy lạc quan
Theo các nhà nghiên cứu, có suy nghĩ lạc quan về tuổi tác sẽ làm bạn sống lâu thêm hơn 7 năm nữa đấy. Vì vậy hãy sống yêu đời, vui vẻ và biết tiếc nuối thời giờ là cách gia tăng thêm tuổi thọ cho bạn.

Categories: Tài Liệu Tham Khảo | Leave a comment

Người Nhật khác biệt đến mức nào?

TUANVIETNAM ››

Người Nhật khác biệt đến mức nào?

Henry Kissinger từng nói: “Người Nhật tin rằng xã hội của họ khác biệt tới mức họ có thể thích nghi với mọi thứ trong khi vẫn bảo tồn được gốc gác dân tộc của mình”.

Kỳ 1: Nhật Bản và quá trình ‘cắt đứt’ đau đớn với TQ

LTS: Trong bài viết dưới đây thể hiện quan điểm của  tác giả David Pilling về những khía cạnh phức tạp trong quá trình trở nên khác biệt của đất nước Nhật Bản.

Từ thập niên 1880, sau khi chế độ Mạc phủ của Nhật Bản bị lật đổ và nhà nước hiện đại trong danh nghĩa Thiên hoàng được hình thành, sách sử nước này được viết lại. Theo đó, lịch sử Nhật Bản không phải bắt đầu từ thời kỳ đồ đá, mà từ sự hình thành đầy huyền thoại của nước Nhật, kéo dài liên tục từ thời kỳ của nữ thần mặt trời Amatarasu cho tới ngày nay.

Còn Thần đạo – một hệ thống các tín ngưỡng dân gian mang màu sắc duy linh của Nhật – được phát triển thành một quốc giáo với Thiên hoàng ở vị trí trung tâm (Thiên hoàng được coi là con cháu thần linh). Nói cách khác, phần lớn những giá trị độc đáo của Nhật Bản đều là sản phẩm của tuyên truyền, tức những hoạt động chính trị nhằm xây dựng và củng cố hình ảnh một nền văn hóa Nhật Bản độc lập trước Trung Quốc.  Sứ mệnh “khai sáng” của Nhật được phát triển lên thành một lý tưởng đáng vì nó mà hy sinh.

Nhiều năm sau, năm 1971, cựu ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger nói với Thủ tướng Trung Quốc khi đó là Chu Ân Lai rằng chính cái quan điểm “mục hạ vô nhân” của Nhật sẽ khiến họ có thể tạo ra những thay đổi nhanh chóng. Ông nói: “Người Nhật tin rằng xã hội của họ khác biệt tới mức họ có thể thích nghi với mọi thứ trong khi vẫn bảo tồn được gốc gác dân tộc của mình. Do đó, người Nhật có thể tạo ra những thay đổi đột phá. Họ đã chuyển từ xã hội phong kiến sang nền văn hóa tôn thờ Thiên hoàng chỉ trong vòng 2 – 3 năm, và họ đã đi từ tôn giáo thờ Thiên hoàng sang chế độ dân chủ chỉ sau 3 tháng.”

Một số nhà quan sát ngoại quốc cũng nhiệt tình không kém người bản địa trong việc quảng bá sự độc đáo giả tưởng của Nhật Bản. Dĩ nhiên, dân tộc nào cũng độc đáo, nhưng ở Nhật Bản, sự thật hiển nhiên này lại trở thành một điều được tôn sùng thái quá. Người Nhật đã phát triển hình thức viết bắt chước triết học gọi là Nihonjinron (hay còn gọi là “các bài luận bàn về bản chất của người Nhật”)đây là hình thức được khai sinh từ thời Mạc phủ nhưng chỉ thịnh hành từ sau Thế chiến thứ hai.

Nhật Bản, Trung Quốc, truyền thống, Hoa Nam, Điếu Ngư, Senkaku, Henry Kissinger
Trên đường phố tại Tokyo. Ảnh: Chi Dứa

Các bài luận này được viết bằng cả tiếng Nhật và ngoại ngữ, và tất cả đều nhằm lý giải điều gì đã khiến người Nhật trở nên độc đáo, và họ khác biệt như thế nào so với người ngoại quốc – vốn bị coi là “cùng một giuộc như nhau”. Những sự tìm hiểu đó thường đều thiên về miêu tả người Nhật là những nông dân trồng lúa, quen với đời sống tĩnh tại và sống tập thể, nên họ vận dụng nhiều đến trực giác và con tim hơn là lý trí lạnh lùng của phương Tây. Khác với những bộ lạc săn bắn phương Tây, người Nhật được coi là có sự nhạy cảm đặc biệt đối với tự nhiên, có khả năng giao tiếp phi ngôn ngữ qua hình thức thần giao cách cảm, và có một cảm nhận tinh tế về nghệ thuật.

Năm 1946, nhà nhân loại học người Mỹ Ruth Benedict, bằng việc xuất bản Hoa cúc và Thanh gươm, cuốn sách viết về nghiên cứu kinh điển của bà về văn hóa Nhật Bản, đã củng cố thêm cho quan điểm nhìn nhận Nhật Bản là một dân tộc tách biệt. Bà mô tả đây là một xã hội được mã hóa cao độ, hoạt động theo các thông tục mà người ngoài không thể hiểu được.

Công trình của bà đã trở thành viên gạch lát đường cho rất nhiều bài luận Nihonjinron sau đó của các tác giả Nhật Bản. Những sự kiện này còn được củng cố thêm nữa bởi thành tựu kinh tế của Nhật Bản thời hậu chiến, mà nhờ đó cả người Nhật và người nước ngoài đều bắt đầu cho rằng công đầu là do cấu trúc tổ chức và xã hội được coi là độc đáo của Nhật Bản.

Người Nhật ngày nay vẫn có quan điểm cho rằng dân tộc mình là một dân tộc cô lập và khác biệt – và thường thì quan điểm này mạng lại cho họ hại nhiều hơn lợi. Chẳng hạn, nó làm trì trệ ngành công nghiệp điện tử của Nhật: các nhà sản xuất Nhật Bản thường cho ra đời những sản phẩm phù hợp một cách hoàn hảo với khách hàng nội địa, song sức vươn ra thị trường quốc tế của chúng lại không lớn.

Họ khao khát tìm kiếm cái mà họ coi là vị trí phù hợp với họ trong hệ thống thứ bậc các quốc gia – họ đã dành hàng năm trời để thực hiện chiến dịch vận động lấy một vị trí thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Nhưng, trong các hành động của mình, dù là khi bảo vệ truyền thống săn bắt cá voi vốn bị quốc tế lên án, hay bảo vệ quyền đến thắp hương tại đền Yasukuni, nơi thờ phụng linh hồn của hơn 2 triệu tử sĩ Nhật, trong đó có 14 tội phạm chiến tranh hạng đặc biệt nghiêm trọng thời Thế chiến thứ hai, thì người Nhật thường cũng khó tìm được sự đồng cảm trên thế giới.

Trong Khuất phục nghịch cảnh, cuốn sách của tôi viết về Nhật Bản, Toshiaki Miura, một nhà bình luận rụt rè và trầm tư trên tờ báo cánh tảAsahi Shimbun, đã tổng kết về sự mâu thuẫn giữa một bên là ý thức về sự cô lập của người Nhật về mặt địa lý, thậm chí cả về mặt tâm lý, với thế giới bên ngoài, và một bên là những nỗ lực bền bỉ tới mệt mỏi trong công cuộc tìm kiếm một chỗ đứng cho mình trên sân khấu toàn cầu. “Tâm lý của chúng ta hết sức cô lập, co cụm, nhưng chúng ta luôn nhìn thấy mình được phản ánh trong tấm gương bên ngoài,” Miura nói về hai khao khát trái ngược nhưng luôn song hành của người Nhật: vừa muốn cô lập, lại vừa muốn được cả thế giới tôn trọng.

“Một trong những bi kịch của cái vị trí của Nhật Bản trong xã hội quốc tế là chúng ta không có hàng xóm nào có cùng quy mô hay cùng mức độ phát triển công nghiệp. Nếu ở châu Âu, Nhật Bản sẽ làm bạn cùng Đức, Ý, và Anh, và chúng ta sẽ có thể học cách cùng tồn tại với những quốc gia ngang ngửa mình,” Miura phân tích.

Nhưng Nhật Bản lại không ở châu Âu. Họ nằm cạnh Trung Quốc, cội nguồn nền văn minh của họ, và từng bị Nhật Bản xâm chiếm khi suy yếu. Giờ đây, họ phải cảnh giác theo dõi Trung Quốc – quốc gia chưa từng tha thứ, cũng chưa từng quên điều gì – ngày càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn.

Bùi Thu Trang (theo Foreignpolicy)

*Tác giả bài viết, David Pilling, là biên tập viên mảng châu Á của tờ Financial Times. Ông từng là Trưởng văn phòng Tokyo của FT trong thời gian 2002 – 2008

Categories: Tài Liệu Tham Khảo | Leave a comment

Bùi Tín: Công, tội trước lịch sử

Bùi Tín: Công, tội trước lịch sử

(10/07/2014 09:44 PM) (Xem: 329)
“NHẬTBÁO VĂNHÓA-CALIFORNIA” THỨ NĂM 09 OCT 2014

Bùi Tín: Công, tội trước lịch sử

 

Bùi Tín

VOA 07.10.2014

Cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh được tìm đọc và bàn luận khá sôi nổi cả trong và ngoài nước. Ở Hà Nội cũng như ở Sài Gòn đã có bán chui ấn bản in từ Cali/Hoa Kỳ gửi về, hoặc tự in ra từ máy vi tính.

Đèn Cù hấp dẫn vì nó kể lại cái không khí sôi động của chiến tranh, tả lại thời kỳ nghiêm trọng sống chết của một dân tộc, đòi hỏi những quyết sách chuẩn xác. Đèn Cù lý thú, lôi cuốn vì nó khắc họa một loạt các khuôn mặt lãnh đạo từng lèo lái con thuyền đất nước qua biết bao hiểm nghèo trong hơn nửa thế kỷ qua, hé lộ những suy nghĩ, hành động, chủ trương của họ, những cuộc đấu đá nội bộ quyết liệt, những thủ đoạn phức tạp đối phó với thù, bạn, ta.

Thế nhưng ý định thầm kín của tác giả Trần Đĩnh là gì? Chủ đích của nhà báo tài năng và tâm huyết này là muốn tâm sự gì với thế hệ đương thời và cho các thế hệ tương lai? Đó là tư duy hòa bình, chung sống hòa bình, chống xung đột vũ trang, phản đối triệt để chiến tranh huynh đệ tương tàn.

Theo tôi, Trần Đĩnh có một lập trường nhân bản. Anh được hấp thụ nền giáo dục và văn hóa Pháp từ thuở bé, để có thể viết được luận văn chính trị lúc mới trưởng thành, ở ngay tòa soạn của tờ báo chủ đạo của Miền Bắc, có quan hệ xã hội rộng.

Cái quý ở Trần Đĩnh là tư duy độc lập, tự tin, suy luận bằng cái đầu tỉnh táo của chính mình. Ở anh không có tố chất cúi mình làm tay sai, nghe theo lệnh người khác. Mặc dù anh nhận viết tiểu sử chính thức cho Hồ Chí Minh, viết hồi ký cho Nguyễn Lương Bằng, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận… nhưng chỉ làm anh thợ viết thuê, nghe kể thế nào viết lại như thế, tuy thế vẫn ngượng ngùng ba lần tủi hổ tự nhận và ăn năn là «bồi bút».

Anh hãnh diện công khai tự khẳng định mình là «xét lại», xét lại chủ nghĩa Mác – Lênin, vì cái học thuyết Mác – Lênin kiểu Stalin là tàn bạo quá, vì cái học thuyết Mác – Lênin kiểu của Mao lại càng dã man hơn. Kinh nghiệm 5 năm sống ở Bắc Kinh đã làm tăng thêm niềm uất hận của anh đối với Mao, ghi sâu trong đầu anh tư tưởng tội ác của Mao là không sợ chiến tranh, kể cả chiến tranh nguyên tử, cho thiên hạ chết la liệt, sẽ còn lại dân Trung Hoa sống sót cũng không sao. Anh cay cú, khinh bỉ cái tư duy ích kỷ của Mao, người chỉ mong cho “thiên hạ đại loạn” để một mình Trung Quốc thủ lợi. Tệ nữa là xúi Việt Nam cứ nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn để ông ta thủ lợi.

Theo tư duy hòa bình nhân ái của Trần Đĩnh, anh dứt tình cả với “Cụ Hồ” của anh, cả với Trường Chinh là người đã dìu dắt đào tạo anh, vì cả Hồ Chí Minh và Trường Chinh thoạt đầu đều tán thành quan điểm “Xét lại” vốn đã thành trào lưu chính thống của phong trào CS quốc tế, nhưng sau cả hai đều xoay sang theo đuôi Mao, cam chịu thành Mao-nhều (Trần Đĩnh sáng tạo ra chữ «nhều» thay cho chữ «Mao-ít » để nói kháy, trêu chọc những người cơ hội theo đuôi Mao).

Cay đắng xuýt xoa tiếc cho Hồ Chí Minh và cho Trường Chinh đã nhu nhược “mặc kệ nó” bao nhiêu thì Trần Đĩnh khinh bỉ oán hận sâu đậm đối với cặp Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bấy nhiêu.

Theo Trần Đĩnh kể, có thể coi 2 nhân vật họ Lê này là đầu mối của những tai họa ập xuống đầu nhân dân ta trong hơn nửa thế kỷ qua. Hai nhân vật này trình độ đều kém hẳn Hồ Chí Minh và Trường Chinh, nhưng mưu chước không hề kém, đã tận dụng thời cơ sau sai lầm Cải cách ruộng đất để gạt Trường Chinh rồi gạt luôn Hồ Chí Minh ra rìa (vin cớ ông Hồ lẩm cẩm rồi) để giành độc quyền lãnh đạo, dần dần lôi kéo quanh mình những kẻ xu nịnh ham mê quyền lực như Tố Hữu, Hoàng Tùng, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Đỗ Mười, Lê Đức Anh…thành một thế lực áp đảo gần giống như «mafia quyền lực», dần dà nắm trọn quân đội.

Yếu tố đảng CS Trung Quốc xuyên suốt lịch sử VN kể từ năm 1949 – 1950 sau khi Mao chiếm chính quyền ở Bắc Kinh ngày 1/10/1949, khai thông biên giới Việt – Trung cuối năm 1950, rồi Mao – Chu Ân Lai bắt Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp nhận chia đôi đất nước ở vỹ tuyến 17 sau Điện Biên Phủ. Tuân theo Mao, Lê Duẩn quyết gây chiến với miền Nam dưới chiêu bài «thắng giặc Mỹ” bằng mọi giá, để rồi bị đòn đau, phải chui vào chiếc rọ Thành Đô tháng 9/1990 cực kỳ thâm hiểm cho đến nay. Mấy triệu trai tráng 2 miền đẫ hăng say giết nhau chỉ để đạt đến một nước lạc hậu, bất công, không pháp luật, như vô hồn.

Hàng loạt bộ mặt «Mao-nhều» múa may quay cuồng trên sân khấu chính trị Việt Bắc – Hà Nội từ 1949 đến 2014, qua gần 600 trang tả chân, cho độc giả nhìn lại lịch sử VN qua những tình tiết sống động đầy nhân tình thế thái, đậm chất bi hài, ở ngay chốn cung đình.

Cặp bài trùng Lê Duẩn – Lê Đức Thọ nắm chắc con chủ bài «Miền Nam» cần phải được giải phóng khỏi ách Mỹ – Ngụy bằng mọi giá để làm con ngựa chiến của mình, với cái ý đồ không hề che dấu là xé tọac cả 2 «Hiệp định đình chiến Genève và Paris» năm 1954 và năm1972 ngay từ khi 2 văn kiện này chưa ráo mực. Điều khoản mở đầu cả 2 hiệp định đều ghi rõ: “Các bên cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam”, nhưng đảng CS VN, thế lực cầm quyền trên miền Bắc, không bao giờ đếm xỉa gì đến cái quyền tự quyết ấy cả, họ cũng không bao giờ công nhận có một người lính miền Bắc nào trên đất miền Nam, dù cho con số ấy lên đến hàng vạn, rồi hàng chục vạn…vẫn cứ là không có, là con số không, chỉ có quân giải phóng miền Nam, tại chỗ.

Có thể nói Trần Đĩnh đã là luật sư bênh vực một lọat bạn bè thân thiết trong hàng ngũ những kẻ «xét lại», như Hòang Minh Chính, Phạm Kỳ Vân, Phạm Viết, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Lưu Động, Trần Châu, Hà Minh Tuân, Hòang Thế Dũng, Đặng Đình Cầu, Mai Hiến, Mai Luân, Trần Thư, Nguyễn Kiến Giang, Lê Minh Nghĩa, Lê Trọng Nghĩa, Đỗ Đức Kiên…Anh cũng minh oan và biểu dương những con người có trí tuệ và nhân cách như Lê Liêm, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Đặng Kim Giang, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường. Tất cả họ đều bị chụp mũ oan uổng là phản bội, phản động, theo địch, đầu hàng đế quốc, sợ chiến tranh, không dám hy sinh, dát như thỏ đế, hèn hạ, bạc nhược, bảo mạng, cầu an, tay sai của lão «trọc» – chỉ Nikita Khrushchev.

Trần Đĩnh tiếc nuối sao ông Hồ lại nhu nhược đến vậy, không dám tham gia biểu quyết về Nghị quyết 9, không dám bảo vệ đường lối hòa bình, chung sống hòa bình, tranh đua hòa bình, không lựa chọn CNXH mang mặt con người, bác bỏ CNXH mang mặt dã thú.

Nhóm Mao-nhều truyền bá trong quân đội Võ Nguyên Giáp là kẻ sùng bái học thuật đế quốc, đậu cử nhân Luật, thuộc tầng lớp trên, Nguyễn Chí Thanh mới thật là bần cố nông đích thật, từng chăn trâu giữ bò cho địa chủ từ tấm bé, Chu Huy Mân cố nông đi buôn chiếu dọc sông Lam từ thuở lên 10, Văn Tiến Dũng là công nhân Cổ Nhuế đổ thùng trên phố rồi về làm thợ may. Cố vấn TQ về tổ chức đã đưa ra cả một danh sách loại bỏ hàng loạt sỹ quan tiểu tư sản không có gốc công nông.

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh là chỉ ra bóng đen của cộng sản TQ, của học thuyết Mao bao trùm lên dân tộc, đất nước và đảng CS VN, qua tay chân «Mao-nhều» ít học, kém văn hóa quá đông đảo.

Do đó cuốn sách kể chuyện cũ mà mang tính thời sự nóng hổi, với những trò chơi xấu của kẻ bành trướng mới rồi ở Biển Đông.

Cuốn sách như muốn góp ý cho mọi đảng viên và bà con ngoài đảng, gợi ý cho tuổi trẻ suy nghĩ về đất nước ta khi Đại Hội XII đang được chuẩn bị, về công và tội của đảng, về công và tội của từng công thần của chế độ, không trừ một ai.

Đây còn là một cuốn sách rất quý ở chỗ nó đáp ứng đòi hỏi «chúng tôi muốn biết» của tuổi trẻ Việt Nam ngày nay.

Phải chăng Thoát Mao, Thoát Trung là yêu cầu sinh tử, và liên minh với bè bạn mới, với mọi nước dân chủ là con đường sống bền vững của dân tộc Việt Nam?

* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Ai gìn giữ tâm nguyên sơ …

Ai gìn giữ tâm nguyên sơ …

(09/25/2014 09:40 PM) (Xem: 239)
“NHẬT BÁO VĂN HÓA-CALIFORNIA” THỨ BẨY 27 SEP 2014

Ai gìn giữ tâm nguyên sơ…

Nguyên Giác
 

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma, tuyệt vời. Tôi có nhiều cơ duyên với ngài… ngay cả từ thời rất là thơ trẻ, khi còn ở trong nước và khi chỉ mới đọc các bài báo sơ sài về ngài. Đất nước Tây Tạng và vị lãnh đạo này là một thế giới kỳ bí, không chỉ vì xa xôi cách biệt nhưng cũng vì niềm tin của dân tộc này rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.

Tôi dễ dàng tin rằng các sư Tây Tạng có phép thuật thần thông, rằng pháp ngồi thiền cho tuyết rơi phảỉ tan chảy, hay chạy như bay trên các rặng núi là chuyện bình thường của các sư Tây Tạng, và do vậy Đức Đạt Lai Lạt Ma phải là tuyệt vời lắm. Dần dà, ra hải ngoại, dọc nhiều hơn, bản thân mưu sinh bằng việc dịch thuật tin tức, và rồi một số cơ duyên gặp ngài trực tiếp (nghề viết báo, vui là thế), lòng tin thơ trẻ năm xưa trở thành lòng yêu thương và kính trọng nhân vật kỳ bí đời thứ 14 này, kể cả khi ngài nói rằng ngài chỉ là một vị sư đơn giản, a simple monk, và mới đây là khi ngàì tuyên bố kết thúc truyền thống Đạt Lai Lạt Ma của Phật Giáo Tây Tạng.

Cũng như mọi đứa trẻ, tôi vốn ưa thích những chuyện kỳ bí. Thời mới 4 tuổi, tôi bị bệnh ghẻ nhiều kinh khủng, đưa tới nhiều bác sĩ chữa hoài không hết, rồi được mẹ dẫn tới một ngôi đền lên đồng ở đường Nguyễn Thông nối dài, khu này ngày xưa gọi là xóm Chuồng Bò, kế bên mấy ruộng rau muống. Bây giờ, nghe nói, quận 3 Sài Gòn không còn ao ruộng gì nữa, vì nhà dựng lên chi chít.

Tôi nhìn thấy lễ lên đồng nơi đây lần đầu tiên trong đời, và cũng là lần cuối trong đời. Sau khi múa hát, một vị cầm dao, kiếm, đâm xuyên  hai bên má, không thấy máu chảy hay đau đớn gì. Tôi kinh ngạc nhìn. Rồi vị pháp sư tới thắt dây ngũ sắc cho tên nhóc đầy bệnh ghẻ, nói với mẹ tôi là lễ chữa bệnh xong rồi. Vậy mà hết ghẻ. Nhưng tôi sau này nghĩ lại, vì lúc đó dì tôi đã hái lá ổi hàng ngày tắm cho tôi. Mẹ nói, có khi vì lá ổi mà hết ghẻ.

Chuyện kỳ bí nữa: tôi học môn võ Thần Quyền. Cũng lạ, vì những cơ duyên này trực tiếp cho tiếp cận với thế giới phi nhân, qua những câu thần chú được nói là của các ông Lục Khmer. Rồi tôi rời bỏ môn võ này, vì tự nhiên thấy là không phải, vì thấy hình ảnh Đức Phật ngồi dưới cội Bồ Đề đẹp quá, không dính gì tới cõi quơ tay múa chân này.

Tôi lại mua cuốn sách, tập Hatha Yoga, và tập pháp thiền Raja Yoga theo sách này.  Rồi trì chú Đại Bi theo hướng dẫn của một số thầy. Rồi sách Thiền in nhiều hơn, với các sách Thiền dich ra Việt ngữ bởi Trúc Thiên, Tuệ Sỹ, và nhiều vị khác. Rồi tập Thiền Chỉ Quán theo một cuốn sách nhỏ, bây giờ quên tên rồi, nhưng kinh nghiệm nàỳ thật tuyệt vời khi tự nhiên nhớ chữ Thể Chơn Chỉ trong sách này, tâm bất ngờ như bật sáng.

Để rồi tuyệt vời là khi gặp Thầy Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng Bình Dương. Chỉ nói rằng, phải Thấy Tánh trước, rồi mới tu sau. Thầy nói ít, kể cả khi nói rằng pháp Tổ Sư Thiền này thực ra là không tu gì hết, hay chỉ là tu cái không tu, trong khi vị sư đệ của Thầy là HT Thường Chiếu ở Đồng Ông Cộ (Gia Định) lại nói nhiều hơn.  Trong đó, có hai vị sư huynh cùng thầy của tôi nơi đây, bây giờ cũng là người viết nhiều về Phật Pháp, là anh Nguyễn Thế Đăng (nhà sư, trụ trì một cái am nhỏ ở ngoại ô Sài Gòn, nhưng bút hiệu chỉ dùng tên đời) và Cư sĩ Thanh Liên, cũng là một người tích cực trong nhóm Viet Nalanda.

*

Bây giờ, đọc nhiều hơn, và đọc các nguyên bản tiếng Anh những lời dạy từ Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, thấy rằng cốt tủy Phật Giáo Tây Tạng đúng là dạy như thế, theo lời ngài: Đạo Phật giảỉ thích rằng, tất cả các thức hay tất cả các tâm  sở đều ở trong bản tánh trong suốt và chói sáng (According to Buddhism, all consciousness or all cognitive mental events are said to be in the nature of clarity and luminosity) — Buổi thuyết pháp các ngày 11-14 tháng 10-1991 tại New York City.

Thực ra, Đức Đạt Lai Lạt Ma trong những buổi thuyết pháp, và trong nhiều sách khác nhau, cũng dạy rất nhiều phương diện khác nhau của Phật Giáo. Kể cả các phương diện kỳ bí, tôi biết như thế, sau khi quen với nhà sư Geshe Tsultim Gyeltsen ở Long Beach, người từng được xem như Bộ Trưởng Ngoại Giao của Đức Đạt Lai Lạt Ma khi tiếp cận với phương Tây, và rồi trở thành bạn thân với Giáo Sư Tenzin Dorjee ở CSU Fullerton, một vị sư trở về đời thường và là người thông dịch cho nhiều buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Hoa Kỳ.

Bởi vậy, cho xóa sổ truyền thống Đạt Lai Lạt Ma là một sự kiện lớn. Nhưng tôi không bất ngờ, vì hoàn cảnh chính trị là thế, và vẫn nhìn thấy rằng ngài sống y hệt như các vị sư thời Đức Phật, cũng khuyến tấn y hệt thời xưa như thế: sống xa lìa tham sân si. Nghĩa là, sống với Niết Bàn tự tâm.

Tôi sống bằng nghề làm báo, nên sóng gió đời thường nhiều lắm, chỉ lấy Phật Pháp làm niềm vui tối thượng. Nhiều khi, chỉ vì vài lỗi in ấn, như bản tin bị mất phần sau hay cách viết khó hiểu, hay các lỗi tương tự… là bị độc giả điện thoại vào, rầy mắng liên tục. Họ bỏ ra 25 cents mua báo, và có quyền như thế; đây cũng là đất nước của tự do. Thêm nữa, mỗi lần thấy một Linh mục hay Mục sư bước vào tòa soạn, nhờ phỏng vấn cho một sự kiện, tôi rất mực trân trọng vì không muốn độc giả nào nghĩ rằng có sự kỳ thị nào nơi đây.

Việc hằng ngày, dĩ nhiên, mang tính trần gian. Làm việc mệt nhọc, có khi 12 hay 14 giờ/ngày, niềm vui thường là khi gặp bạn trong giới văn học, khi thấy những bài thơ hay, khi đọc được truyện ngắn xuất sắc. Tất nhiên là cũng tự biết đang gây nghiệp thường xuyên; cho dù đã tránh né rất cẩn thận, nhưng khi viết về đời thường chính trị, xã hội… tôi vẫn dùng lối văn giễu cợt, chọc quê.  Thực sự, viết phê bình chuyện đời thường mà chữ nghĩa trang nghiêm như đang dịch kinh thì chẳng ai đọc; báo sẽ dẹp tiệm sớm. Tôi hoàn toàn đồng ý với câu người xưa nói rằng trong sách có thiếu nữ mặt đẹp như ngọc; đúng ra, văn chương còn đẹp hơn nhan sắc phụ nữ gấp nghìn lần. Do vậy, niềm vui cũng là những khi tôi dịch sang Anh văn các tác phầm của Inrasara, của Nguyễn Lương Vỵ, của quý Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh, TT Thích Nhật Từ. ..

Riêng về lần dịch một tập thơ của Nguyễn Lương Vỵ (những dòng thơ tôi tin là hay như, hoặc hay hơn thơ Bùi Giáng), tôi tự buộc mình như nhập thất suốt nhiều tháng, mỗi ngày ăn rất ít, đi làm về là mở máy tính, vừa ngồi gõ, vừa quán tâm mình liên tục… vì tôi nghĩ, dịch thơ tên này có thể kéo mình xuống địa ngục. Thí dụ, mấy câu này của Vỵ chẳng đạo học tí nào, và rất mực là đau đớn trần gian:

Rồi thôi, đôi mắt ướt ngàn thâu

(Chẳng cần lãng mạn quái gì đâu!)

Phố chợ, tiếng rao khuya xót ruột

Âm rách vai, gió thốc trong đầu…

Và tôi (khổ quá, phải làm sao cho nó có tính xuất thế gian, dù là bất toàn) dịch là:

oh gone, the misty eyes of a thousand years
(needless to be romantic at all!)
the town grieves over the yelling of street vendors at night
the voice pierces shoulders, the wind blasts in the heads…

Nhưng chuyện trần gian đầy những đau đớn hàng ngày như thế, làm sao để có thể dìu nhau tới bờ giải thoát? Những khi suy nghĩ như thế, tôi lại nhớ tới ngài Đạt Lai Lạt Ma đang bước đi giữa cõi trần gian rất mực đau đớn.

*

Và hàng ngày, trong đời thường, khi ngồi đọc hàng trăm bản tin, chọn tin, dịch tin, dò lỗi, suy tính ưu tiên các bản tin – nghĩa là đủ thứ bản tin về tham sân si đời thường, từ hình sự tới đủ thứ… —  trong cả những lúc gần như kiệt sức mỗi buổi chiều, hay cả những lúc ứa nước mắt khi đọc tin quê nhà, tôi vẫn nhớ tới bản kinh trong Tương Ưng Bộ nói về tiêu chuẩn của người tu học: phảỉ xem tâm mình có khởi lên tham sân si hay không.

Kinh này là SN 35.152, tựa đề “Atthinukhopariyaayo Sutta: Is There a Criterion?”  dịch bởi

Maurice O’Connell Walshe (1), và Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch là “Có Pháp Môn Nào?” trong đó Phật dạy về cách nhìn tâm:

“Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si, biết rõ: “Nội tâm ta có tham, sân, si”; hoặc nội tâm không có tham, sân, si, biết rõ: “Nội tâm ta không có tham, sân, si”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rõ: “Nội tâm ta có tham, sân, si”; hoặc nội tâm không có tham, sân, si biết rõ: “Nội tâm ta không có tham, sân, si”…” (2) – Tương tự với tai, mũi, lưỡi, chạm xúc, thức…

Như thế, câu hỏi là, có những khoảnh khắc trong ngày, chúng ta thấy tâm mình không tham, không sân, không si… có phải đó là khoảnh khắc của Niết Bàn? Có phải giây phút đó là Thấy Tánh hay đốn ngộ  (nếu muốn sử dụng chữ này)?  Không dám khẳng định. Tôi luôn luôn cố gắng sống với tâm của một đứa trẻ sơ sinh, dù là đọc và học rất nhiều, và vẫn tránh chuyện tranh cãi, vì cần để tâm lực cho quá nhiều chuyện đời thường trong ngày. Tâm trẻ sơ sinh là không trụ tâm vào đâu cả, là vô sở trụ, tôi tập như thế từ lâu rồi, dù là vẫn đang làm mọi thứ phải làm trong đời.

Nói đơn giản là không tham sân si, nhưng khó vô cùng tận. Bởi vì trong cõi Bolsa này, bên cạnh chuyện cạnh tranh thương mại, đặc biệt là trong giới truyền thông và nghệ sĩ, chỗ nào cũng toàn là tuyệt sắc giai nhân. Có những khi nhấc điện thoại lên, có những người có giọng nói ru hồn người. Chiều về, sau khi tơi tả vì những trận mưa chữ Việt, chữ Anh hàng ngày, tôi lại nằm như chết, để toàn bộ thân và tâm như chết. Đây là cách rất hiệu quả: Tôi nằm duỗi thẳng người, hình dung rằng mình đã chết từ đầu tới chân, tất cả các tâm niệm biến mất, bắp thịt toàn thân thư giãn ra, chỉ còn luồng hơi thở phập phồng, dịu dàng. Thực sự, quen rồi, tâm thức về cái chết toàn thân này cũng dễ dàng hiện ra khi đi đứng nằm ngồi. Sau này, tôi đọc thấy ngài Milarepa (1052-1135) cũng từng dạy  cách này.

Tôi nghĩ, hầu hết, khi niệm chết như thế, các niệm tham sân si biến mất. Nhưng nghĩ cho kỹ, cũng là một phần của pháp niệm hơi thở. Đoán như thế thôi, vì tôi không học Kinh Phật theo lối chính quy. Thường chỉ ưa đọc các bản tiếng Anh, vì dễ đối chiếu nhiều bản dịch khác nhau, qua công cụ tìm kiếm ở Internet. Thêm nữa, phải đối chiếu, vì đã thấy rằng dịch là công việc gian nan, không dễ gì dịch cho tuyệt hảo được, khi tôi dò 24 bản Anh dịch của 4 câu trong Kinh Pháp Cú. (3)

Tôi cũng từng tập Thiền Tứ Niệm Xứ. Ngài Đạt Lai Lạt Ma cũng dạy về Tứ Niệm Xứ. Trong đó có bản Anh dịch, tóm lược một khóa tu năm 2002 lưu ở Văn Khố Berzin, người biên tập là Sư Thubten Chodron.  Như thế, phức tạp quá. Thế nên, tôi thích nhất là cuốn “Mindfulness in Plain English” (Chánh Niệm Hướng Dẫn Bằng Tiếng Anh Đơn Giản) của nhà sư Tích Lan Bhante Gunaratana.

Đức Phật đã tách ra làm 4 phần khi tu Chánh Niệm, Mindfulness: Thân, Thọ, Tâm Pháp. Nghĩa là từ gần nhất là quán sát thân mình, trong đó rất mực gần và dễ nhận nhất là niệm hơi thở, như thế, tôi đã tập từ thời tập theo sách Thiền Chỉ Quán. Tới xa hơn là niệm thọ, rồi tới niệm tâm (chỗ này trừu tượng hơn, vì là dò xem dấu chân trâu), rồi niệm pháp… là xa và trừu tượng hơn. Nhưng rồi, tôi niệm gì, rồi cũng thấy là mình đang niệm tâm mình; hễ nhìn thấy bất kỳ những gì hiện ra trước mắt đều thấy tức khắc là hiện trong tâm mình, hễ nghe thấy bất kỳ tiếng nào bên tai là tức khắc nhận ra tâm mình đang hiển lộ…

Cuối cùng, tôi thích nhất là đơn giản hóa mọi chuyện, là cách nhận ra bất kỳ những gì khởi trong tâm mình. Sau này đọc nhiều, cũng thấy nhà sư Tây Tạng Thrangu Rinpoche nói tương tự: “Thiền định không phải là để thêu dệt hay để củng cố trạng thái [tâm] đặc biệt nào, nhưng chỉ đơn giản là tập kỹ năng nhận biết bất cứ những gì khởi lên trong tâm.” (Meditation is not supposed to be the fabrication or the reinforcement of some particular state, but simply the cultivation of the awareness of whatever is arising in the mind.) Chỉ nhận biết, và không trụ tâm vào đâu.

*

Nhưng tuyệt vời là những khi ngồi làm việc tới mệt nhọc, chân gần như tê liệt (như ngồi trên phi cơ nhiều giờ), rồi đứng dậy tập thể dục, tay đấm, chân đá và hốt nhiên nhận ra mình đang sống với Tánh Không, cái Emptiness… bất kể là trọn ngày đã hứng đủ thứ chuyện trần gian, và vẫn nhận ra có rất nhiều lúc tâm mình không tham sân si, không hề thấy cái tôi với cái của tôi. Hạnh phúc là như thế.

Đức Phật đã từng giải thích về Không…  Khi ngài  Mogharāja hỏi: Con phải quán sát thế giới này thế nào để không bị Tử Thần nhìn thấy?

Đức Phật trả lời: “Hãy luôn luôn tỉnh thức nhìn thế giới này như rỗng không, để gỡ bất kỳ cái nhìn nào về tự ngã. Với cách này, con sẽ đứng trên và vượt qua cái chết. Đây là cách quán sát về thế giới để không bị Tử Thần ngó thấy.” (4)

Câu hỏi tới đây là, định luật nhân duyên dẫn tới cái nhìn về Tánh Không trong các pháp. Vậy thì, Tánh Không đó là gì? Có phải như các Thiền sư nói rằng bản tâm hệt như gương sáng tròn lớn: Hán tới hiện Hán, Hồ tới hiện hồ, và do vậy cảnh tới rồi đi như chim bay không lưu vết? Hay chỉ đơn giản, Tánh Không chỉ có nghĩa là “không có cái tôi, không có cái của tôi”?

Rồi một lần, Đức Phật dạy: “Các sư, chói sáng là tâm này. Và nó bị nhiễm trần vì phiền não bám vào. Các sư, chói sáng là tâm này. Và nó được giải thoát xa khỏi phiền não bám vào…” (5)

Như vậy, Thấy Tánh có phảỉ là khoảnh khắc của thấy cái chói sáng của tâm nguyên sơ đó? Khoảnh khắc thấy đó, hiển nhiên là xa lìa tham sân si, có thể gọi là đốn ngộ được không?

Dĩ nhiên, thiền tập là chuyện gian nan. Thêm nữa, câu trên cũng có thể hiểu nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa: tâm này (the mind) chói sáng là sau khi tu tập, sau khi xa lìa tham sân si (nói theo tiêu chuẩn đã nêu đầu bài). Tranh luận, như đã thấy trong lịch sử, có thể sẽ dẫn tới bất tận.

*

Trong khi đó, qua vài lần, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rất minh bạch:

“Niết bàn là gì? Cái căn bản dựa vào đó để có thể thành tựu Niết bàn được gọi là Phật tánh, tức là cái dòng bất biến an nhiên…” (6)

Hay như khi Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy Tứ Diệu Đế ở chùa Saihoji Temple tại Nagano, Nhật Bản, ngày 21 tháng 6-2010: “Nhận ra Phật Tánh sẵn có trong tâm sẽ cho quý vị tự tin và cung cấp một chìa khóa cho đời sống hạnh phúc.” (7)

Nhận ra Phật Tánh… dĩ nhiên, từ chỗ hiểu về khái niệm Phật tánh, tới chỗ kinh nghiệm còn là chuyện gian nan. Do vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma trong các sách đã kiên nhẫn, trước tiên là sử dụng nhiều phương pháp lý luận để nói về tâm, và rồi nói về pháp hành. Nghĩa là, củng cố lý luận trước, rồi mới tu tập sau.

Nhìn chung, Đức Đạt Lai Lạt Ma rất ít khi nói tới “Phật tánh” cũng vì sợ học nhân nhầm lẫn, và rất thường khi nói về Tánh Không, về Trung Quán, về Từ Bi… Vì rốt ráo, Phật Tánh (Buddha-nature) gợi cảm xúc về ngôn ngữ như là có, trong khi Tánh Không là cách nói chỉ ra là không, dễ tu hơn và dễ tránh ngộ nhận. Chỗ này, thực ra, Phật tánh như Phật Giáo Tây Tạng và Bắc Tông giải thích, là xa lìa cả có và không, xa lìa cả nhiễm và tịnh… y hệt như bài Bát Nhã Tâm Kinh.


Một vị sư Nam Tông tới gần với Thiền Tông về điểm này là ngài Ajahn Chah, khi gọi đó là Bản Tâm (Original Mind), dịch sát nghĩa như sau:

“Về tâm này… Trong sự thật, không có gì thực sự sai trái với nó. Nó trong bản chất là thanh tịnh. Trong nó [tâm này], nó đã sẵn bình an. Khi tâm này không bình an lúc này, chỉ bởi vì nó chạy theo các cảm xúc. Chân tâm không dính gì tới nó (The real mind doesn’t have anything to it), nó chỉ đơn giản là (một phương diện của) Bản Nhiên. Nó bình an hay dao động bởi vì cảm xúc lừa gạt nó. Tâm không tu tập là si mê. Những trần căn tới và lừa gạt nó rơi vào hạnh phúc, đau khổ, vui và buồn, nhưng bản tánh thật của tâm không phải là mấy thứ đó. Vui và buồn không phảỉ là tâm, mà chỉ là cảm xúc tới để lừa gạt chúng ta. Tâm không tu tập sẽ lạc lối và sẽ chạy theo mấy thứ này; nó tự quên nó đi. Rồi chúng ta nghĩ rằng nó là chúng ta, những người trở nên loạn tâm hay trở nên thoải mái hay trở nên bất cứ thứ gì.

Nhưng thực sự, tâm này của chúng ta vốn sẵn bất động và bình an… thực sự bình an! Cũng như chiếc lá đứng bất động, khi không có gió  thổi. Nếu gió tới, lá lay động. Sự lay động này là vì gió – “sự “lay động” là vì các trần căn đó; rồi tâm chạy theo chúng. Nếu nó [tâm] không chạy theo chúng, nó không “lay động.” Nếu chúng ta biết trọn vẹn bản chất thật của các trần căn, chúng ta sẽ bất động.

Pháp thiền tập của chúng tôi đơn giản là thấy Tâm Bản Nhiên (Our practice is simply to see the Original Mind). Do vậy, chúng ta phảỉ luyện tâm để biết các trần căn, và không bị chúng lôi kéo đi. Để làm nó [tâm này] bình an. Chỉ như thế là mục tiêu của tất cả pháp thiền tập gian nan mà chúng ta phải trải qua.” (8)

Tâm này vốn sẵn bất động và bình an… Phải thấy Tâm Bản Nhiên… Tâm bản nhiên, tâm nguyên sơ… Những câu này của ngài Ajahn Chah y hệt như ngôn ngữ Pháp Bảo Đàn Kinh. Nghĩa là, cái khoảnh khắc nhận ra tâm đã vốn sẵn bất động và bình an có phải là đốn ngộ? Có phải là Thấy Tánh? Có phải khoảnh khắc đó là xa lìa tham sân si? Có phải tâm đó là tâm vô sanh, là không sanh diệt? Chỗ này Đức Phật có nói.

*

Đức Phật trong một lần dạy về Niết Bàn, đã nói về vô sanh:

“Các sư, có một cái không sanh, không trở thành, không được làm nên, không bị thêu dệt nên. Nếu không có cái không sanh, không trở thành, không được làm nên, không bị thêu dệt nên, sẽ không thể có sự chứng ngộ giải thoát ra khỏi cái sanh, cái trở thành, cái được làm nên, cái bị thêu dệt. Nhưng, một cách chính xác, bởi vì có cái không sanh, không trở thành, không được làm nên, không bị thêu dệt, nên sự giải thoat ra khỏi cái sanh, cái trở thành, cái được làm nên, cái bị thêu dệt mới được chứng ngộ.” (9)

Nghĩa là, có một cái bản nhiên đã bất động, đã xa lìa tham sân si. Đã có bao giờ người đời thường (thí dụ, một kẻ đầy tham sân si như tôi) có thể nhận ra cái tâm bất động này chưa? Tôi tin rằng tất cả mọi người đều đã từng có khoảnh khắc nhận ra cái tâm bản nhiên bất động, xa lìa tham sân si này. Tất cả mọi người đều đã từng Thấy Tánh, nhưng rồi lướt đi.

Dễ nhận ra là khi ngồi trước biển rộng. Sẽ có những giây phút thấy tâm mình xa lìa tham sân si, thấy không có cái tôi và cái của tôi, thấy biển và tâm như một. Chính lúc đó, sẽ thấy tâm mình không dính một pháp nào hết, tuy thấy sóng biển mênh mông gợn lên thật xa nhưng vẫn thấy tâm mình bất động. Trong khoảnh khắc đó, xa lìa cả động và bất động, xa lìa cả nhiễm và tịnh, như dường thời gian đứng lại – xa lìa cả quá khứ, vị lai, và cả hiện tại.

Không cần cảnh trước mặt bình an, ngay cả khi cảnh hiển lộ dữ dội, chúng ta vẫn có thể thấy tương tự như trên. Thí dụ, bạn đứng ở một góc rừng, nhằm ngày mưa gió, tiếng lá cây và tiếng mưa ào ạt, bạn đứng với thân người ướt mem nhìn dòng suối chảy xiết trước mặt… Khoảnh khắc đó, bạn có thể nhận ra tâm bạn xa lìa tham sân si, và bản hòa tấu mưa rừng chung quanh là tâm đang hiển lộ — và tâm này hoàn toàn rỗng không, cho nên tất cả các âm thanh và hình ảnh hiện ra trong tâm mà vẫn không suy xuyển. Tương tự, khi ngồi nghe dàn hòa tấu cả trăm nhạc khí…

Hay thí dụ, khoảnh khắc buổi sáng chợt nghe tiếng gà gáy. Hẳn là nhiều người sẽ thấy rằng giây phút đó tiếng gà là tâm hiển lộ, tâm này xa lìa tham sân si. Đó là giây phút khi nhà sư Hương Nghiêm quét sân và nghe tiếng sỏi văng vào gốc cây tre; tiếng sỏi không huyền bí gì, chỉ vì lúc đó sư nhận ra tiếng sỏi là bản tâm hiển lộ, và tâm này xa lìa tham sân si.

Khoảnh khắc nhận ra tâm xa lìa tham sân si cũng có thể là khi nhìn thấy màu son trên môi một phụ nữ. Có khi nhìn thấy một màu son lạ (tôi cũng từng học vẽ, nên có quan tâm về màu sắc), tôi suy nghĩ có thể màu này là 2 màu đỏ và cam, nên tạo ra sự cố ý không đều, trông như màu son biến đổi trên môi. Tất nhiên, tôi đang sử dụng tâm phân biệt khi thắc mắc về màu son, cũng y hệt như khi dùng tâm phân biệt khi làm toán, khi làm thơ, khi chọn màu cho một bản vẽ, và vân vân.

Tâm phân biệt này không làm suy xuyển gì tới tâm vô phân biệt bản nhiên và bất động. Cũng y hệt như khi nhà sư Hương Nghiêm nghe tiếng sỏi văng vào gốc tre, vẫn biết đó không phải là tiếng gà gáy, không phải tiếng chim kêu… Và tâm phân biệt khi đó vẫn xa lìa tham sân si; giây phút đó, thời gian như đã biến mất.

*

Câu hỏi tới đây là, làm sao nhận ra tâm này bất động?

Thử lấy một thí dụ, khi bạn ngồi làm toán, với bút chì trên giấy hay với bàn gõ trên máy tính. Bạn đang ngậm viên kẹo sôcôla, tiếng nhạc vọng ra từ máy TV bên ngoài, quạt máy thổi sau lưng… Bạn đang chú tâm làm toán, những vẫn đang vô tâm nhận ra vị ngọt của kẹo, vô tâm nghe tiếng nhạc bên ngoaì vọng vào, vô tâm cảm nhận gió mát từ quạt máy. Nếu tâm này không bất động, không thể có thọ dụng cái toàn thể như thế.

Chính lúc đó, bạn đang sống cái toàn thể. Không còn cái phần mảnh nào hết. Cái tâm bản nhiên của bạn đang hiển lộ, đang tắm gội trong cái toàn thể, bất kể rằng bạn đang sử dụng tâm phân biệt vật lộn với các bài toán đại số hay hình học. Chính khi bạn nhận ra mình đang sống với cái toàn thể như thế, thời gian biến mất, vì sẽ không còn cái hôm qua và ngày mai, cũng là bạn đang sống với cái hiện tiền, hay ngắn gọn, đang sống với cái phi thời gian.

Bất kỳ ai cũng có lúc sống với những khoảnh khắc như thế, nơi đó bạn thọ dụng thế giới, và tham sân si biến mất. Pháp tu chỉ đơn giản là sử dụng tất cả các công cụ Đức Phạt đã dạy, là giới định huệ, là tứ niệm xứ, là chỉ quán, là niệm hơi thở, là ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, là sám hối, là từ bi… để xa lìa tham sân si, một cõi tâm bạn đã từng có lúc nhận ra (mà chúng ta gọi cho gọn là đốn ngộ). Nghiệp lực rồi sẽ lôi kéo chúng ta trượt đi, nhưng khi đã thấy cõi quốc độ này xong, mọi chuyện đơn giản cực kỳ, và sẽ hiểu trọn vẹn Thiền Tông do Bồ Đề Đạt Ma truyền dạy.

Đó là khi Đức Phật cầm đóa hoa đưa lên, ngài Ca Diếp mỉm cười. Đơn giản vì các sư khác thấy là hoa, nhưng Ngài Ca Diếp thấy là bản tâm hiển lộ và mỉm cười vì khoảnh khắc này xa lìa cõi tham sân si (hy vọng Đức Phật và Ngaì Ca Diếp sẽ không rầy mắng những dòng chữ giảỉ thích này, nơi chữ chỉ thuần là chữ, và được viết với không có cái nhìn về “tôi” và “của tôi”).

*

Tuy nhiên, khi nói rằng “Giữ lấy Tâm Rỗng Sáng” cũng sai, hay ít nhất, cũng chưa đủ.  Chỗ này, chúng ta thử đọc lại cách nhà sư Lâm Tế truyền pháp, có những cách dạy khác nhau, tùy căn cơ người hỏi pháp.

Phương pháp là Tứ liệu giản:

– Có khi đoạt nhân không đoạt cảnh

– Có khi đoạt cảnh không đoạt nhân

– Có khi nhân cảnh đều đoạt

– Có khi nhân cảnh đều không đoạt

Phương pháp của ngài Lâm Tế được giải thích trong Lăng Nghiêm Tông Thông:

“Trong thiền môn thuần dùng Trí Huệ, duy chỉ có một tay Lâm Tế thật khó gặp một người thứ hai. Ngài thường nói : “Sơn tăng chốn này đoán định ba thứ Căn Khí : như hàng căn khí trung hạ đến, ta bèn đoạt Cảnh nó mà chẳng trừ Pháp nó. Nếu là hàng căn khí trung thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp đều đoạt. Như có người căn khí thượng thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp, Người đều đoạt. Như có người kiến giải xuất cách đến thì sơn tăng chốn đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng cần Căn Khí. Các Đại Đức, đến trong ấy mà chỗ nỗ lực của học nhơn chẳng thông rõ phong đại, lửa đá, chớp xẹt tức qua liền vậy. Người học mà con mắt định nếu động, liền mất giao thiệp.

Tâm nghĩ tức sai, động niệm tức trái! Có người nào rõ biết, chẳng lìa trước mắt… Ôm lấy chẳng tụ, vứt đi chẳng tan. Tìm cầu liền mất xa, không cầu là trước mắt”….” (http://thuvienhoasen.org/a1229/quyen-viii)

Tìm cầu liền mất xa, không cầu là trước mắt? Nghe y hệt như ngaì Ajahn Chah của Thái Lan.

Nơi đây, xin thử giảỉ thích 4 câu của sư Lâm Tế (qua hiểu biết rất mực thô sơ của tôi).

Câu đầu, dạy pháp phá Ngã Chấp, tức là “đoạt nhân, không đoạt cảnh”. Giúp học nhân phá hết mọi thứ về “cái tôi” và “cái của tôi.” Mặt trời ấm hiện… là bắt đầu có trí tuệ.

Câu thứ 2 là, “Có khi đoạt cảnh không đoạt nhân.” Dạy cho học nhân phá hết mọi thứ chấp về cảnh, về pháp, về đối tượng của tâm. Nghĩa là, tất cả uẩn xứ giới đều không thực, đều là huyễn; chỗ này Kinh Viên Giác dạy là tri huyễn tức ly, là khi thấy tất cả các pháp trong hay ngoàì tâm đều là huyễn, tức khắc xa lìa tham sân si. Chỗ này nói, ngay cả Niết Bàn cũng là giấc mộng đêm qua. Câu thơ của dòng Lâm Tế chỗ này là: “Lệnh vua đã ban hành khắp thiên hạ, Tướng quân ngoài ải dứt khói bụi,” trong đó Lệnh vua là Tự Tánh hiển lộ.

Thí dụ, chuyện hai nhà sư, một nói phướn động, một nói gió động. Lục Tổ Huệ Năng thấy vậy, mới nói, chỉ có tâm hai sư động thôi. Nghĩa là, nhìn cảnh thấy tâm, cả tâm và cảnh nhất như, một thể.

Câu thứ 3 là, “Có khi nhân cảnh đều đoạt.” Nơi đây, giúp học nhân vào Tánh Không, nơi không thấy ta, không thấy người, không thấy có cái gì phiền não, không thấy có cái gì là giải thoát. Nơi đây, cả Tâm và cả Cảnh đều là Cái Không Rỗng Rang. Câu thơ giải thích là: Tịnh Phần bặt tin tức, Một mình ở một nơi. Nghĩa là, mình đi đứng nằm ngồi với Cái Không Rỗng Rang.

Thí dụ, chuyện phướn động vừa nêu. Lục Tổ Huệ Năng, sau khi nói rằng tâm hai sư động, ngài có thể nói thêm, rằng Tâm Bản Nhiên của quý vị vẫn bất động và rỗng rang.

Nhưng câu thứ 4, là ngài Lâm Tế chỉ dùng khi gặp người thượng căn: Có khi nhân cảnh đều không đoạt. Thế nào là nhân cảnh đều không đoạt? Sư đáp: Vua bước lên ngai, Lão quê ca hát. Nghĩa là không có pháp nào để tu hết, chỉ cần giữ Tâm Bình Thường thôi, vì Vua (Tự Tánh) đã ngồi vào ngôi hoàng đế rồi, lão quê muốn làm gì cũng chẳng suy xuyển.

Thí dụ, nêu tiếp chuyện phướn động ở trên. Chỗ này, Lục Tổ Huệ Năng có thể sẽ nói rằng, tất cả các pháp đều chẳng có động với tịch gì hết, đây là sống với những khoảnh khắc của cái toàn thể, khoảnh khắc của không còn gì gọi là thời gian. Còn gọi là Toàn Tướng Tức Tánh. Vì sanh và vô sanh đều không vướng vào tâm nữa.

*

Tới đây, câu hỏi có thể là, sau khi nhìn thấy khoảnh khắc của tâm xa lìa tham sân si, làm sao có thể thuận tánh khởi tu? Thực ra, đây là pháp môn không có cửa vào, chính giây phút nhận ra bản tâm là đã vào cửa rồi; đây cũng là pháp môn không có lối đi, vì đòi hỏi phải ngồi thiền cho tới khi thấy Tánh trước, rồi mới tự biết lối đi riêng, vì không mấy ai giống ai.

Tuy nhiên, tất cả các pháp Đức Phật dạy, dù là trong kinh Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa (PG Tây Tạng) đều tiện dụng và đều nên được thực tập để rồi tự mình chọn cách nào tiện lợi. Vì sau khi thấy rồi, sẽ không linh tinh lang tang nữa.

Tuyệt vời nhất có lẽ là đoạn văn này trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) khi Đức Phật dạy ngài Bahiya:

“Thế này, Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.” (10)

Hay là lời dạy của nhà sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1992) trong A Taste of Freedom:

“Chúng ta phải tu tập mà không tìm cầu bất kỳ thứ gì. Nếu chúng ta không tìm cầu bất kỳ thứ gì, những gì chúng ta sẽ nhận được? Chúng ta không nhận được gì hết! Bất cứ những gì bạn nhận được sẽ chỉ là cội nguồn cho   khổ đau, do vậy chúng ta tu tập hạnh không tìm cầu bất kỳ thứ gì.

Chỉ như thế gọi là “làm cho tâm rỗng rang” (making the mind empty — vô tâm). Nó thì rỗng không, nhưng vẫn có sự hành hoạt. Cái rỗng không này là cái người ta thường không hiểu, nhưng những ai đạt tới nói, sẽ thấy giá trị khi nhận ra nó. Nó không phải là cái rỗng không của không có gì hết, mà nói là cái rỗng không vẫn nằm trong các thứ hiện hữu nơi đây.” A Taste of Freedom. (8)

Đọc ngài Ajahn Chah hoàn toàn không thấy khác gì với Thiền Tông. Dĩ nhiên, tu tập bao giờ cũng rất là gian nan.

Trong cuốn sách dạy về pháp Thấy Tánh, nhan đề “Meditation on the Nature of Mind” (Thiền Định về Bản Tánh của Tâm) của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14, có nói về  pháp “nhìn vào  niệm trước đã diệt, niệm sau chưa sinh”:

“Ngài Milarepa cũng nói rằng: giữa hai niệm kế nhau,  cái thấy về pháp tánh liên tục khởi dậy. Hãy nếm lấy nó.” (Lord Milarepa also states: in between one conceptual thought and the next, gnosis continuously arises. Go taste it.” (11)

Một cách tuyệt vời nữa, cũng do ngài Milarepa (khoảng 1052- 1135), nói về 5 pháp an tâm:

Hãy để tâm tự nhiên như một em bé

Hãy để tâm như mặt biển không sóng gợn

Hãy để tâm trong suốt như ngọn lửa nến

Hãy để tâm không bận gì nữa y hệt một xác chết

Hãy để tâm bất động như một ngọn núi. (12)

Dĩ nhiên, ngài Milarepa cũng dạy là phải Thấy Tánh trước, còn gọi là pháp Thiền Đại Thủ Ấn (Mahamudra) của PG Tây Tạng – và Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã viết tác phẩm “The Gelug/Kagyu Tradition of Mahamudra” về pháp thiền này.

Nơi những sách của ngài Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã nhận ra Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa không dị biệt gì, trong tận cùng. Trên các trang giấy của ngài, tôi đã nhận ra hình ảnh của Đức Phật, của Lục Tổ Huệ Năng, của Ajahn Chah và của rất nhiều nhà sư tôi hàm ơn.

Tháng 7-2010, tôi đã bày tỏ lòng biết ơn Đức Đạt Lai Lạt Ma nhân dịp sinh nhật thứ 75 của ngài tại Quận Cam, trong cuộc triển lãm, nơi lễ khai mạc có tham dự của anh bạn thân GS Tenzin Dorjee và một pháí đoàn chư tăng tới từ Dharamsala– xem: http://tinyurl.com/ovg2jeg  — và bây giờ, bùi ngùi trước tin rằng, truyền thống Dalai Lama sẽ kết thúc sau ngài. Sang năm 2015, sẽ là sinh nhật thứ 80 của ngài.

Và bây giờ, nếu đột nhiên, bạn thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện ra, và hét vào bên tai bạn… y hệt kiểu các sư Lâm Tế thời xa xưa, hãy nhận ra tức khắc rằng, chính  khoảnh khắc nghe đó là tâm hiển lộ ra và không dính mảy tham sân si nào. Tôi tin rằng sau tiếng hét đó, ngài sẽ cười rất mực khoái trá, một tiếng cười của tâm nguyên sơ từ nhà sư đơn giản này, nhưng rất mực từ bi và thâm sâu.

GHI CHÚ:

1. “In this, monks, a monk seeing an object with the eye recognizes within himself the presence of lust, hatred or delusion, knowing ‘Lust, hatred or delusion is present in me,’ or he recognizes the absence of these things, knowing ‘There is no lust, hatred or delusion present in me.’

[Similarly for ear, nose, tongue, body (touch), mind.]

Categories: Tài Liệu Tham Khảo | Leave a comment

Blog at WordPress.com.