Monthly Archives: July 2016

Obama rớt nước mắt nói về Ngày của Cha

Obama rớt nước mắt nói về Ngày của Cha

Phát biểu nhân Ngày của Cha, Tổng thống Obama nhắc lại thảm kịch ở Orlando để nhấn mạnh rằng các ông bố cần dạy cho con về lòng bao dung và sự bình đẳng, sống với tình thương.

Dưới đây là bài phát biểu cuối tuần của Tổng thống Obama nhân Ngày của Cha.

Tôi trưởng thành mà không có cha ở bên. Trong khi tôi tự hỏi cuộc đời tôi sẽ ra sao nếu ông ấy ở bên cạnh nhiều hơn, tôi cũng nỗ lực hết mình để trở thành người cha tốt cho các con gái của tôi.

Cũng như mọi người cha khác, tôi luôn luôn lo lắng về sự an toàn của các con. Đặc biệt khi chúng ta đang chứng kiến những vụ bạo lực, lẽ ra có thể ngăn chặn, xảy ra ở nơi mà những đứa trẻ thường đến, như trường học, nhà thờ, rạp chiếu phim, và hộp đêm khi chúng trưởng thành.

Đó sẽ là hành động táng tận lương tâm nếu chúng ta cho phép các vũ khí chiến tranh được tuồn vào những địa điểm trên một cách dễ dàng. Và, ngay cả khi chúng ta đã chứng kiến nỗi đau của những ông bố bà mẹ mất con, việc chúng ta không thể làm gì để ngăn chặn những chuyện đau lòng tái diễn là điều vô lý.

Obama, tổng thống Mỹ, ngày của cha, thông điệp ngày của cha, dạy con, lòng nhân ái
Tổng thống Obama rơi lệ khi phát biểu về vụ xả súng ở hộp đêm Pulse tại Orlando. Với số người chết là 50 (bao gồm nghi phạm), sự việc trở thành vụ bạo lực súng đạn đẫm máu nhất lịch sử Mỹ.

Trong tuần này, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về chuyện các ông bố, bà mẹ trên khắp nước Mỹ sẽ giải thích thế nào với họ về những chuyện đã xảy ra ở Orlando. Thỉnh thoảng chúng ta lại phải chứng kiến những phút mặc niệm dành cho những nạn nhân trong các vụ xả súng. Và sau những khoảnh khắc này là nhiều tháng trời im lặng. Việc không hành động gì là điều không thể bào chữa.

Nếu chúng ta muốn nuôi nấng các con trong một môi trường an toàn và nhiều lòng yêu thương hơn, chúng ta cần phải lên tiếng. Chúng ta cần các con lắng nghe chúng ta lên tiếng, về những nguy cơ mà súng đạn gây ra cho cộng đồng, và chống lại một hiện trạng vô nghĩa. Các con cần lắng nghe chúng ta nói về điều này, dù những ý kiến phản đối có thể mạnh mẽ hơn và át đi.

Chúng ta cần các con lắng nghe rằng vì sao lòng bao dung và sự bình đẳng lại quan trọng, về những khoảng thời gian mà sự thiếu vắng 2 yếu tố này đã gây ra những tác động tiêu cực trong lịch sử, cũng như việc thấu hiểu tốt hơn sẽ giúp mang lại tương lai tươi sáng mà các con thừa hưởng. Chúng ta cần các con lắng nghe lời nói của mình, và chứng kiến chúng ta sống một cuộc sống bằng tình yêu thương.

Obama, tổng thống Mỹ, ngày của cha, thông điệp ngày của cha, dạy con, lòng nhân ái
Hạnh phúc đáng ngưỡng mộ của người đứng đầu nước Mỹ.

Chúng ta cũng không thể quên trách nhiệm của mình trong việc nhắc nhở con trẻ về những vai trò hình mẫu tỏa sáng trong những khoảnh khắc đen tối. Đó là cảnh sát và lực lượng phản ứng đầu tiên, những người cứu hộ qua đường và những người hiến máu. Những người an ủi thân nhân của các nạn nhân. Những nạn nhân mà hành động cuối cùng trên cõi đời này là để giúp đỡ người khác. Họ không chỉ là hình mẫu cho trẻ con, hành động của họ cũng là những điển hình cho chúng ta.

Trở thành phụ huynh cũng là lúc nhận ra rằng không phải mọi thứ đều nằm trong tầm kiểm soát. Nhưng là cha mẹ, chúng ta nên nhớ trách nhiệm mà có thể hoàn thành trong khả năng bản thân: đó chính là nghĩa vụ dành cho những đứa con tình yêu và sự ủng hộ vô điều kiện; chỉ ra cho con sự khác biệt giữa điều đúng đắn và sai trái; dạy con biết yêu thương và không nên hận thù; trân trọng sự khác biệt, vì đây là món quà cần nâng niu chứ không phải điều để sợ hãi.

Đối với tôi, tình phụ tử nghĩa là luôn sẵn sàng có mặt. Do vậy, trong những ngày sắp tới, hãy luôn ở bên cạnh vì nhau. Hãy ở cạnh gia đình và những người đang tổn thương. Hãy ở cạnh nhau như một cộng đồng và một đất nước. Đừng bao giờ quên rằng chúng ta có thể đạt được nhiều tốt đẹp chỉ bằng hành động đơn giản là yêu thương mỗi người.

Xin chúc mừng tất cả những người cha trong Ngày của Cha!

Advertisement
Categories: Tin-Tức Thế-Giới | Leave a comment

Đã có ý kiến cần xem lại vai trò của Campuchia ở ASEAN

Đã có ý kiến cần xem lại vai trò của Campuchia ở ASEAN

Việc thông cáo chung của Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tuần trước không đưa ra quan điểm của khối về phán quyết của tòa trọng tài ở La Haye về vụ kiện Biển Đông giữa Trung Quốc và Philippines là do Campuchia phản đối. Nhiều chuyên gia ASEAN và châu Á vừa đề nghị ASEAN xem lại cái gọi là yêu cầu đồng thuận tuyệt đối nếu không “nên loại bỏ Campuchia khỏi khối này”.

Ngoại trưởng Campuchia tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 49 tại Lào

Ngày 27/7, Campuchia phân bua rằng, tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 49 (AMM-49), họ chỉ khuyến cáo, “thông cáo chung” của ASEAN nên tránh việc làm cho căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines gia tăng.

Việc hội nghị trên phát hành một “thông cáo chung” mà nội dung không đả động gì đến phán quyết về Biển Ðông đã khiến cả Trung Quốc, Campuchia lẫn ASEAN trở thành những mục tiêu đàm tiếu.

Hội nghị AMM-49 vừa diễn ra tại Lào là lần đầu tiên ngoại trưởng các quốc gia Ðông Nam Á gặp nhau sau khi tòa trọng tài công bố phán quyết vụ Philippines kiện yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền tại Biển Ðông.

Bởi Biển Ðông liên quan trực tiếp đến 4/10 thành viên của ASEAN (Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei) và yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đe dọa xâm hại cả chủ quyền của Indonesia ở vùng biển Natuna nên lẽ ra, ASEAN phải nêu “quan điểm chung” đối với phán quyết về Biển Ðông, tuy nhiên Ngoại trưởng các quốc gia Ðông Nam Á hết sức chật vật mới ra được “thông cáo chung” do Campuchia phản đối đề nghị của Philippines: “Thông cáo chung” phải nêu “quan điểm chung” đối với phán quyết về Biển Ðông.

Vì ASEAN chỉ có thể nêu “quan điểm chung” về một vấn đề nào đó nếu tất cả các thành viên cùng tán thành, thành ra ASEAN sẽ không thể nói gì nếu Campuchia phản đối. Giờ chót, các Ngoại trưởng của ASEAN đành thỏa hiệp với nhau: Philippines rút yêu cầu nêu “quan điểm chung” đối với phán quyết về Biển Ðông. Campuchia gật đầu để “thông cáo chung” ghi rằng: ASEAN lo ngại về những diễn biến gần đây ở Biển Ðông.

Tuy nhiên chiến thắng của Trung Quốc thể hiện qua “thông cáo chung” của Hội nghị Ngoại trưởng AMM-49 dường như là giọt nước làm tràn “ly nhẫn nại” của ASEAN.

Ông Tang Siew Mun, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu ASEAN, thuộc viện nghiên cứu ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore vừa đề nghị ASEAN xem lại cái gọi là yêu cầu đồng thuận tuyệt đối.

Theo chuyên gia Tang, tính chất của sự kiện “thông cáo chung” do Hội nghị AMM-49 phát hành không đề cập đến phán quyết về Biển Ðông nghiêm trọng hơn nhiều so với sự kiện Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN năm 2012 không ra được “thông cáo chung” hay việc phải rút lại “thông cáo chung” hồi tháng trước. Ông Tang cho rằng, việc lên tiếng đối với phán quyết về Biển Ðông là cách để khẳng định ASEAN tôn trọng luật pháp cũng như các chuẩn mực quốc tế. Không thể chấp nhận ASEAN phớt lờ yếu tố quan trọng này chỉ vì Campuchia không đồng ý.

Ông Tang nhận định, lẽ ra ASEAN nên nhận thêm một “vết nhơ” vì Hội nghị AMM-49 không đạt được sự đồng thuận để phát hành một “thông cáo chung” hơn là thỏa hiệp để rồi ra một “thông cáo chung” mà không đả động gì đến phán quyết về Biển Ðông.

Chuyên gia Tang cho rằng phải xem lại “tiêu chí đồng thuận tuyệt đối” bởi rõ ràng là ASEAN không thể để tình trạng một thành viên khăng khăng bảo vệ của riêng mình mà ảnh hưởng đến lợi ích chung của cả khối. Những trục trặc do “tiêu chí đồng thuận tuyệt đối” đang khiến người ta nghi ngờ về khả năng thực hiện các định hướng chiến lược của ASEAN trong tương lai.

Ông Tang khuyến cáo Campuchia nên suy nghĩ về tương lai của mình, hoặc đồng hành với ASEAN hoặc “sang ngang” bước theo “gã hàng xóm giàu có”.

Tuy Hiến chương ASEAN không đề cập một cách rõ ràng về việc loại bỏ hay để một thành viên rút lui nhưng theo ông Tang, đã đến lúc phải xem lại chuyện có nên dung dưỡng Campuchia như một thành viên chuyên gây rối và tạo ra đủ thứ nguy hại cho lợi ích chung. Ông Tang nhấn mạnh, trong bối cảnh như hiện nay, cố gắng “duy trì tình đoàn kết” và “giữ thể diện” chỉ là “trò hề”.

Sau khi ông Tang đề nghị ASEAN xem xét việc loại bỏ Campuchia nhằm vô hiệu hóa một công cụ mà Trung Quốc dùng để lũng đoạn ASEAN, tới lượt Ian Storey, chuyên gia Trung tâm Nghiên cứu Ðông Nam Á, nhận định, “thông cáo chung” của Hội nghị AMM-49 là “điều đáng hổ thẹn” cho cả ASEAN lẫn Trung Quốc.

Theo ông Storey, đây là sự kiện cho thấy ASEAN quá mềm yếu còn Trung Quốc thì tiếp tục trâng tráo, sử dụng mọi thủ đoạn vô đạo để đạt mục đích của mình. Ông Storey nhấn mạnh, cả ASEAN lẫn Trung Quốc đều không có ý thức gìn giữ danh dự. Hãng AP nhận xét, Campuchia giống như “phát súng ân huệ” mà Trung Quốc dành cho ASEAN và “thông cáo chung” của Hội nghị AMM-49 kết thúc uy tín của ASEAN.

Trước sự chỉ trích kịch liệt của các chuyên gia về Ðông Nam Á, châu Á, giới quan sát thời sự và truyền thông quốc tế, Chum Sounry, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Campuchia ngày 27/7 phân bua rằng tại Hội nghị AMM-49, Ngoại trưởng Campuchia chỉ trình bày quan điểm của Campuchia là phán quyết về Biển Ðông không phải chuyện của ASEAN. Ðó là chuyện riêng giữa Philippines và Trung Quốc. ASEAN không nên can dự mà cần giữ “sự trung lập”. “Thông cáo chung” của ASEAN không nên dùng những từ có thể khiến mức độ căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc leo thang.

Ông Sounry nói thêm rằng, việc dùng sự kiện Trung Quốc cho Campuchia vay 600 triệu USD trước khi Hội nghị AMM-49 khai mạc một tuần và cho rằng Trung Quốc đã “mua” Campuchia là “sỉ nhục Campuchia”.

Tháng 6 vừa qua, sau hội nghị thượng đỉnh giữa ASEAN và Trung Quốc, ASEAN phát hành “thông cáo chung” nhấn mạnh rằng các quốc gia Ðông Nam Á hết sức lo ngại về diễn biến tại Biển Ðông vì chúng khiến căng thẳng gia tăng và gây nguy hại cho hòa bình cũng như sự ổn định trong khu vực. Ngay sau đó, ASEAN thu hồi “thông cáo chung” cũng vì Campuchia phản đối!

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

. Không có cái họa nào lớn hơn…

. Không có cái họa nào lớn hơn…

Posted by adminbasam on 31/07/2016

Kinh tế thì lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc, từ Nam ra Bắc chỗ nào cũng có mặt người Trung Quốc, ở những vị trí quan trọng nguy hiểm nhất về an ninh quốc phòng; ngoài khơi, trên đất liền, trên không và bây giờ là cả không gian mạng, Trung Cộng cũng có thể dễ dàng kiểm soát, đánh phá… Vụ các sân bay lớn ở VN thời gian gần đây bị mất sóng liên lạc, hai máy bay quân sự bị bắn rơi, hay vụ hai sân bay lớn nhất của VN là Tân Sơn Nhất và Nội Bài bị tin tặc Trung Cộng tấn công trong ngày 29.7 vừa qua … chỉ là những dấu hiệu dằn mặt mà thôi“.

_____

Blog RFA

Song Chi

31-7-2016

Rừng cây hữu nghị thanh niên Việt Trung. Ảnh: internet

“Hữu nghị” với kẻ cướp. Ảnh: internet

Ai rước giặc vào nhà?

Khởi đầu là sự ngây ngô, ngu muội, mù quáng, cả tin vào những cái gọi là tình hữu nghị cộng sản, thế giới cộng sản đại đồng, xem điều đó quan trọng hơn cả lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, nên đảng cộng sản VN đã tự nguyện coi đảng cộng sản Liên Xô, đảng cộng sản Trung Quốc là anh cả, anh hai, là thầy. Nhất nhất mọi chuyện nghe theo lời Liên Xô, Trung Quốc, tiến hành cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn phá nát đất nước trong 20 năm, thực chất là “đánh Mỹ và đánh miền Nam thay cho Liên Xô, Trung Quốc”, và đưa miền Bắc vào đói nghèo, lạc hậu bởi rập khuôn mô hình Liên Xô thời bao cấp… Ngu muội đến mức tự nguyện ký công hàm công nhận một phần lãnh hải của mình là của Trung Quốc, và khi Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa còn nghĩ là để cho Trung Quốc giữ dùm còn tốt hơn thuộc về miền Nam!

Sau chiến tranh thì vơ vét vàng, gạo, thuốc men… của miền Nam đi trả nợ Liên Xô, Trung Quốc. Cái tình hữu nghị ấy được đền đáp bằng việc Trung Cộng do tức giận đảng cộng sản VN ngả hẳn về phía Liên Xô sau 1975 đã lệnh cho Khơ Me Đỏ quấy phá VN, dẫn đến việc VN vừa bước ra khỏi một cuộc chiến dài dằng dặc lại phải sa lầy vào cuộc chiến biên giới Tây Nam 10 năm, bị thế giới quay lưng cấm vận, đã đói nghèo càng thêm nghèo đói. Đồng thời Trung Cộng phát động cuộc chiến tranh biên giới tàn khốc, VN mất thêm xương máu và một phần lãnh thổ dọc biên giới. Thời gian từ 1979-1989 tiếp tục chiến tranh lai rai, mất thêm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Còn Liên Xô? Trong cả hai biến cố cuộc chiến biên giới Việt-Trung 1979 hay trận hải chiến Trường Sa 1988 Liên Xô không hề can thiệp, hỗ trợ, mặc dù giữa Việt Nam và Liên Xô có ký Hiệp ước Liên minh Quân sự Đồng minh song phương năm 1978.

Đến khi Liên Xô và khối XHCN cũ ở Đông Âu sụp đổ, đảng cộng sản VN vẫn chưa tỉnh ngộ, lại tự nguyện xin xỏ Trung Cộng cho bình thường hóa quan hệ, dẫn đến Hiệp ước Thành Đô 1991 đầy bất lợi mà chưa ai rõ là VN đã ký những gì với Trung Cộng. Ngay cả những Hiệp ước Biên giới trên đất liền giữa Việt Nam- Trung Quốc 1999, Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ năm 2000 cũng chưa bao giờ được công khai, nhưng nhiều nguồn tin cho biết VN đã nhân nhượng cho TQ khá nhiều về lãnh thổ, lãnh hải, người dân thì chỉ thấy được những gì cụ thể như ải Nam Quan, một phần thác Bản Giốc…không còn thuộc về VN nữa…

Nào đã yên, kể từ đó là quá trình xâm lấn từ từ, lệ thuộc từ từ, ngày càng sâu nặng của VN với Trung Cộng. Với sự tiếp tay tích cực của đảng cộng sản VN, bây giờ thì không còn do ngu muội vì lý tưởng, học thuyết gì nữa, mà chỉ vì tiền, vì lợi ích cá nhân, phe nhóm và trên hết là lợi ích của đảng, nên đảng cộng sản đã cam tâm bán rẻ đất nước cho Trung Cộng, nhắm mắt làm ngơ cho Trung Cộng thực hiện mưu đồ của họ, chuẩn bị kế hoạch lâu dài xâm chiếm VN.

Cho đến hôm nay, người VN giật mình nhìn lại, Trung Quốc hầu như đã hoàn tất xong các bước trong kế hoạch đó, biển Đông với Bắc Kinh đã trở thành ao nhà, Trung Quốc đã kịp thời quân sự hóa các đảo, chuẩn bị kỹ lưỡng cho một cuộc chiến tranh quy mô không chỉ với VN, trong khi đó VN thì sao?

Kinh tế thì lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc, từ Nam ra Bắc chỗ nào cũng có mặt người Trung Quốc, ở những vị trí quan trọng nguy hiểm nhất về an ninh quốc phòng; ngoài khơi, trên đất liền, trên không và bây giờ là cả không gian mạng, Trung Cộng cũng có thể dễ dàng kiểm soát, đánh phá…Vụ các sân bay lớn ở VN thời gian gần đây bị mất sóng liên lạc, hai máy bay quân sự bị bắn rơi, hay vụ hai sân bay lớn nhất của VN là Tân Sơn Nhất và Nội Bài bị tin tặc Trung Cộng tấn công trong ngày 29.7 vừa qua … chỉ là những dấu hiệu dằn mặt mà thôi. Đó là chưa kể việc Trung Quốc tuồn sang VN thực phẩm hàng hóa độc hại, các công ty Trung Quốc gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường, hủy hoại từ từ giống nòi VN…

Nếu không phải là đảng cộng sản cầm quyền với chủ trương thân Trung Cộng mà là một chế độ tự do dân chủ thân Mỹ và phương Tây thì tất cả những điều này có xảy ra cho đất nước, dân tộc VN không? Và nếu đảng cộng sản còn tiếp tục ngồi đó với chính sách câm mù điếc, với sự tham lam, hèn hạ, bất lực của họ đối với Bắc Kinh thì hậu quả sẽ thế nào?

Hỏi tức là đã trả lời.

Sai lầm nối tiếp sai lầm

Cái tội rước giặc vào nhà đã quá rõ nhưng khi tình thế đã đến mức này, khi giặc không chỉ ở ngoài ngõ mà còn ở ngay trên đất VN và không loại trừ khả năng ở ngay trong hàng ngũ bộ máy quan chức, lãnh đạo, đảng và nhà nước cộng sản VN lại tiếp tục có những cách hành xử, đối phó rất sai lầm và tai hại. Một mặt, họ tiếp tục im lặng, nhịn nhục, có lẽ họ vẫn hy vọng mong manh rằng nếu nhịn nhục, không liên minh với bất cứ nước nào khác, không tạo bất cứ cơ hội nào để chọc giận Bắc Kinh thêm thì Trung Cộng sẽ để yên cho họ và không gây chiến. Đối với nhân dân và thế giới, họ tiếp tục bưng bít thông tin, che dấu mức độ nghiêm trọng của tình thế, sự bao vây về mọi mặt của Trung Cộng đối với VN cũng như sự bất lực của họ. Tiếp tục ru ngủ và đe dọa nhân dân với những lập luận quen thuộc “mọi chuyện đã có đảng, nhà nước lo, không nên để cho các thế lực thù địch lợi dụng cơ hội kích động, giật dây, gây chia rẽ mối quan hệ hữu nghị Việt Trung, làm rối thêm tình hình”…

Trong khi một người dân thường có hiểu biết cũng thấy, lẽ ra nhà nước VN phải tìm cách thoát dần Trung Quốc từ kinh tế cho tới an ninh, chính trị, liên minh với các nước lớn để có được sự hỗ trợ khi Trung Cộng giở trò tấn công VN, công khai minh bạch tất cả những thủ đoạn xâm chiếm dần dần nước khác của Trung Cộng để thế giới biết, và nhất là với nhân dân để nhân dân hiểu rõ tình hình. Họ phải khơi dậy lòng yêu nước, sự đoàn kết, thái độ quan tâm đến chính trị, đến hiện tình đất nước của nhân dân thay vì đàn áp, rắp tâm biến người dân trở thành bạc nhược (giống họ) hoặc thờ ơ, vô cảm vì cho rằng có lên tiếng cũng chẳng được gì.

Quan trọng hơn, họ phải nghe theo nguyện vọng của nhân dân, thay đổi thể chế chính trị để VN trở thành một quốc gia tự do dân chủ. Có như thế mới tập trung được tối đa sức mạnh đoàn kết của nhân dân, có thêm bạn bè đồng minh thực sự từ các nước dân chủ tiến bộ, đồng thời khi đó, mọi ràng buộc, nợ nần ân oán cho đến mọi văn bản, ký kết, thỏa thuận giữa hai đảng, hai nhà nước cộng sản mới trở nên vô giá trị, VN mới có thể đường hoàng thoát khỏi Trung Quốc.

Nhưng thực tế cho đến nay chẳng có dấu hiệu nào cho thấy đảng cộng sản VN sẽ lựa chọn, dù chỉ một lần trong suốt lịch sử cầm quyền dài hơn 70 năm, đặt quyền lợi của đất nước, của dân tộc lên trên quyền lợi của đảng cả.

Không có cái họa nào lớn hơn đối với một quốc gia, một dân tộc cho bằng cái họa khi có một đảng cầm quyền hèn hạ, bán nước. Thế nhưng 90 triệu người Việt chúng ta liệu có vô can khi để cái họa này tồn tại quá lâu?

Một lần nữa, hỏi tức là đã trả lời.

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Việt Nam vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường

Việt Nam vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường

Nguyễn Quang Dy

29-7-2016

Albert Einstein và câu nói nổi tiếng của ông. Nguồn: interne

“Có hai thứ vô hạn: vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người…” (Two things are infinite: the universe and human stupidity – Albert Einstein)

Hơn bảy thập kỷ sau khi lập quốc (1945) và hơn bốn thập kỷ sau cuộc chiến tranh Việt Nam (1975), đất nước vẫn đang mắc kẹt tại ngã ba đường. Tại sao lại có bi kịch này? Làm thế nào để thoát ra ra khỏi ngã ba đường của lịch sử?

Trong nhiều thập kỷ, đất nước đã bị sa vào chiến tranh và bạo lực, cực đoan và hận thù, như cái bẫy ý thức hệ. Những thế lực cực đoan (trong và ngoài nước) đã thao túng số phận đất nước này, làm cho chính họ và ít nhất một thế hệ người Việt bị ngộ nhận, lạc vào ma trận (như chiến tranh Việt Nam). Muốn thoát ra khỏi ngã ba đường không dễ. Báo cáo “Việt Nam 2035” khuyến nghị phải đổi mới thể chế và cải cách vòng hai.   

Có nhiều việc phải làm, như cách thể chế và chống tham nhũng. Trong phạm vi bài viết này, hãy thử xem lại mấy điều cơ bản: Thứ nhất là đặc điểm bối cảnh hiện nay; Thứ hai là nguyên nhân và hệ quả; Thứ ba là các giải pháp khả thi.

Đặc điểm bối cảnh hiện nay

Cuộc tranh cãi hiện nay về giải pháp nào cho các vấn nạn quốc gia vẫn còn bế tắc. Đất nước có thể tiếp tục suy thoái và tụt hậu, nếu vẫn chưa cải cách được thể chế, vẫn chưa xử lý được nạn tham nhũng bị thao túng bởi các nhóm lợi ích.

Sau bao thăng trầm, Việt Nam vẫn bị mắc kẹt tại ngã ba đường, bị các nhóm lợi ích tham nhũng bắt làm con tin, mà vẫn tưởng mình đang làm chủ. Đoàn tàu đất nước bị bắt cóc (hijacked), đang đi chệch đường ray, chạy loanh quanh trong thung lũng mù, mà vẫn tưởng đang chạy trên đường ray “kinh tế thị trường định hướng XHCN”.

Nhiều người ngồi trong các toa tàu (cả chủ lẫn khách) vẫn tưởng an toàn và vô can, mà không biết rằng đoàn tàu đang lầm đường lạc lối. Một số người nhanh chân thu gom tài sản, nhảy khỏi đoàn tàu, hy vọng thoát thân tại một “thiên đường” nào đó.

Một hệ quả đáng buồn là dòng người và dòng tiền đang lũ lượt ra đi. Theo UN DESA, từ năm 1990 đến 2015 đã có 2.558.678 người Việt di cư ra nước ngoài (trung bình mỗi năm gần 100 ngàn người). Theo World Bank (năm 2013), Việt Nam là một trong 10 quốc gia có nhiều người di cư nhất khu vực Đông Á-Thái Bình Dương.

Trong mấy năm qua, đã có 92 tỷ USD được chuyển ngầm ra nước ngoài bằng nhiều cách, và có hàng trăm người Việt có tên trong Hồ sơ Panama và có tài khoản tại các “thiên đường trốn thuế” như Virgin Islands, Cayman và Malta… Đây không chỉ là hiện tượng tham nhũng, chảy máu chất xám và tài nguyên, mà còn là khủng hoảng lòng tin.

Những vấn đề hậu chiến như hòa giải dân tộc, tái thiết đất nước, cải cách kinh tế và chính trị, vẫn còn ngổn ngang như mới bắt đầu. Những thành tựu đầy ấn tượng của hai thập kỷ cải cách kinh tế thị trường đã bị triệt tiêu bởi thiếu đổi mới chính trị. Các nhóm lợi ích dựa vào cơ chế thân hữu, tiếp tục thao túng thể chế “kinh tế thị trường định hướng XHCN” như một miếng mồi ngon, làm đất nước ngày càng kiệt quệ và tụt hậu.

Không khỏi giật mình khi nhìn vào các chỉ số kinh tế cơ bản. Hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản hoặc “chết lâm sàng”. Thâm hụt ngân sách tới mức báo động. Nợ xấu và nợ công chồng chất. Các khoản vay World Bank để ứng phó thay đổi khí hậu, phát triển đồng bằng Mekong, và nâng cao năng lực cạnh tranh, như muối bỏ bể.

Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến đầu năm 2016, dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ còn khoảng 30 tỷ USD, đến tháng 6/2016 tăng lên 38 tỷ USD. Theo Bộ tài chính Mỹ, Việt Nam nắm giữ 12 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ (chiếm 1/3 dự trữ ngoại hối), do đó dự trữ tiền mặt chỉ có 26 tỷ USD. Năm 2015, Việt Nam phải trả nợ 20 tỷ USD và năm 2016 ít nhất là 12 tỷ USD (trả nợ nước ngoài chiếm 40%). Năm 2015, nhập siêu từ Trung Quốc là 30 tỷ USD (nhập chính thức) và 20 tỷ USD (nhập lậu). Nếu Trung Quốc muốn, họ có thể làm cho dự trữ ngoại hối của Việt Nam (30 tỷ USD) bốc hơi trong một ngày.

Chỉ cần quan sát kỹ một chút là thấy bức tranh quốc gia đầy bất ổn, cả về sức khỏe kinh tế lẫn ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia. Cách đây 26 năm, cựu ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã bức xúc thốt lên rằng một thời kỳ bắc thuộc mới bắt đầu. Những hệ quả của Thành Đô vẫn dai dẳng như một nghiệp chướng, chưa biết bao giờ thoát Trung.

Mấy năm qua, tai họa môi trường xảy ra liên tiếp. Không phải chỉ do ông trời làm thay đổi khí hậu, mà còn do con người gây ra. Trong khi hạn hán và ngập mặn chưa từng có trong lịch sử tại đồng bằng Mekong đe dọa cuộc sống hàng triệu nông dân, vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu, thì thảm họa môi trường biển miền Trung do Formosa gây ra đãg hủy diệt hải sản và môi sinh, đe dọa cuộc sống hàng vạn ngư dân và cộng đồng. Không phải chỉ có ngành hải sản và du lịch biển bị tê liệt, mà chủ quyền Biển Đông có nguy cơ bị mất.

Tại sao ta lại từ chối đề nghị giúp đỡ của cộng đồng quốc tế (như Liên Hợp Quốc và Mỹ)? Tại sao phạt Formosa có 500 triệu USD để đền bù thiệt hại (và cho tồn tại)? Tại sao lại phải nhẹ tay “khoan hồng” đối với thủ phạm đã và đang gây ra thảm họa môi trường miền Trung? Trong khi lại nặng tay đàn áp người dân biểu tình ôn hòa đòi “biển sạch” và “minh bạch”? Và bưng bít thông tin bằng cách kiểm duyệt và đe nẹt báo chí? Tại sao Chính phủ và các cơ quan chức năng phải mất gần 3 tháng mới công bố nguyên nhân và thủ phạm gây ra thảm họa môi trường (trong khi hầu như ai cũng biết thủ phạm là Formosa)?

Thật là nghịch lý nếu ta phải cầu cứu Trung Quốc giúp đỡ, khi đồng bằng sông Mekong bị hạn, (do họ xây quá nhiều đập thủy điện trên thượng nguồn) và khi máy bay Su 30MK và CASA 212 bị rơi liên tiếp ngoài khơi Biển Đông (một cách bí ẩn). Tại sao ta lại sợ Trung Quốc như vậy? Trong khi Philippines dám kiện (và đã thắng), nhiều nước ủng hộ phán quyết của PCA, thì Việt Nam vẫn giữ thái độ rất dè dặt, không dám kiện.

Nguyên nhân và hệ quả

Thứ nhất là nỗi sợ đi vào tiềm thức. Đó là nguyên nhân sâu xa gây chia rẽ, hận thù, nghi ngờ, dối trá, không thể hòa giải (như những chỉ số năng lượng tiêu cực). Người Việt vốn sợ Tây, sợ Tàu, sợ tất cả, nên căm thù và đánh tất. Nhưng khi phải quyết định lựa chọn kế thoát hiểm, thì lại sợ thay đổi thể chế, nên mắc kẹt tại ngã ba đường. Dân sợ và không tin chính quyền. Chính quyền sợ dân (coi dân như thù địch), vì sợ mất ghế, mất chế độ, mất độc quyền, nên phải bưng bít thông tin và trấn áp. Làm sao thoát khỏi nỗi sợ?

Trung Quốc không đáng sợ như vậy, và họ đang suy yếu. Về đối ngoại Trung Quốc ngày càng bị cô lập, nhất là sau phán quyết của PCA về Biển Đông. Về đối nội, kinh tế xuống dốc, uy tín của Đảng cầm quyền suy giảm. Theo một báo cáo của Ủy ban Kỷ luật Trung ương (1/7/2016) chỉ có 2,2% đảng viên đạt tiêu chuẩn, và 90% bộ máy cầm quyền của Đảng phải cải tổ, vì “đã mục nát triệt để”. Các lãnh đạo cao nhất của Đảng (như Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn) đã công khai thừa nhận chế độ Cộng sản Trung Quốc đang đứng trước “nguy cơ vong Đảng” và đã đến “điểm giới hạn gần như sụp đổ” (theo Vương Kỳ Sơn).

Thứ hai là tư tưởng cực đoan ẩn tàng trong cộng đồng, nhất là các quan tham muốn “làm giàu bằng mọi giá”, nên thường bỏ qua và quên mọi rủi ro tiềm ẩn (do vô minh). Tư tưởng cực đoan dẫn đến “hội chứng nhất” (cái gì cũng phải nhất). Ví dụ, Hà Tĩnh có dự án to nhất (Formosa), tốc độ duyệt dự án này cũng nhanh nhất, và có số cán bộ tham gia trung ương cũng đông nhất (16 người). Nay xảy ra thảm họa môi trường cũng lớn nhất.

Có thể nói, đó là hệ quả của cực đoan và bè phái, là hai trở ngại lớn nhất đối với quá trình đổi mới và phát triển. Các nhóm lợi ích thân hữu (bán nước hại dân) có thể làm đất nước trệch khỏi đường ray phát triển, và tiếp tục mắc kẹt tại ngã ba đường. Phải chăng nhóm lợi ích thân hữu  lũng đoạn Hà Tĩnh đã biến Formosa Vũng Áng thành một tô giới Tàu, hay “vương quốc nước ngoài trong lòng Hà Tĩnh” (GDVN, 26/7/2016).

Thứ ba là khủng hoảng nhân cách (như đa nhân cách). Trong khi các quan lại (địa phương và trung ương) làm giàu bất minh và gây ra tai họa, thì họ luôn mồm “vì quê hương đất nước”.  Khi đã mất nhân cách thì họ thường vô cảm, vô minh, và làm như “vô can” trước tai họa do họ gây ra. Vì vậy, ông Võ Kim Cự mới tỏ ra “thực sự bất ngờ…không lường được” và thản nhiên phán “phải kiên quyết xử lý đối với những vi phạm dù bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào” nhưng lại khẳng định“ký giấy chứng nhận đầu tư là đúng luật và đúng quy trình…”

Điệp khúc “đúng quy trình” là một cách ngụy biện thô thiển đến phản cảm, mà những kẻ đạo đức giả và mất nhân cách hay sử dụng để qua mặt những ai nhẹ dạ cả tin. Làm “đúng quy trình” mà không cần biết quy trình đúng hay sai và hậu quả ra sao, là một trò lừa đảo mà những nhóm lợi ích (bán nước hại dân) hay dùng để thao túng luật lệ trong một thể chế bất minh có nhiều kẻ hở. Họ tìm đủ cách lý giải và đổ cho quy trình và kỹ thuật (chứ không phải do con người), đổ lỗi cho người khác (chứ không phải do mình).

Vì vậy, sau khi xảy ra tai họa thì ông Cự làm như vô can, rồi lý giải như “lấy thúng úp voi” (lời ông Phạm Quyết Thắng, nguyên phó Tổng thanh tra Chính phủ). Ông Thắng bức xúc hỏi, “ông là người trình xin thủ tướng cho phép dự án có thời hạn 70 năm hay trình dự án 50 năm mà thủ tướng chữa lại thành 70 năm?… Tôi không loại trừ trong quá trình quan hệ đó có lý do nể nang, quen biết, cảm tình, và có cả vấn đề lợi ích cá nhân… Ông Cự chủ động, tích cực làm việc này, nhưng chắc chắn phải có người hậu thuẫn, bật đèn xanh cho ông ấy.

Formosa: Phần nổi của tảng băng chìm

Đại dự án Formosa như “con ngựa thành Troy” đã gây ra thảm họa môi trường và đẩy đất nước vào một cuộc khủng hoảng với những hệ quả khôn lường, liên quan đến phát triển kinh tế, ổn định chính trị và an ninh quốc phòng. Nó xẩy ra đúng lúc chuyển giao quyền lực giữa chính phủ cũ (đã “ăn không từ cái gì”) và chính phủ mới (còn “chưa ấm chỗ”), nên đối phó bị động và lúng túng như “gà mắc tóc” và “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

Hãy điểm lại mấy nét chính của câu chuyện Formosa, với những lỗ hổng lớn về quản lý nhà nước và giám sát an toàn môi trường. Không thể đổi mới thể chế, nếu không làm rõ và xử lý thích đáng vụ Formosa như một “case study” mà cả ba chỉ số cơ bản của mô hình cải cách đều thiếu hụt: (1) chống tham nhũng (corruption), (2) quản trị tốt (governance), (3) minh bạch & trách nhiệm giải trình (transparency & accountability).

Điều phi lý nhất là sau khi để xảy ra một thảm họa môi trường lớn như vậy, và sau khi Formosa (nhà đầu tư) đã nhận tội, phía chủ nhà vẫn im lặng như vô can, vì làm “đúng quy trình”, mà không hề quan tâm quy trình đó đúng hay sai. Nếu ông Cự (nguyên Chủ tịch/Bí thư Hà Tĩnh) và những quan chức liên đới trong chính phủ cũ và các bộ ngành (TN&MT, KH&ĐT, KH&CN, NN&PTNT…) mà vô can, thì ai là bị can đây?

Ông Cự  đúng là người có “công đầu”, đưa đường chỉ lối cho Formosa vào đầu tư tại Vũng Áng và Sơn Dương (một vị trí chiến lược tại Miền Trung), nhưng không phải chỉ có một mình. Nếu ông Cự (và cộng sự) không biết Formosa nổi tiếng hủy diệt môi trường, và đằng sau Formosa là Trung Quốc, thì là vô minh. Ông Cự (và cộng sự) còn tìm mọi cách lách luật (hay phạm luật) để đáp ứng các yêu cầu tối đa của FHS (chủ đầu tư Đài Loan) và MCC (nhà thầu Trung Quốc). Đó là bất minh (chứ không phải “bất ngờ”).

Ông Cự đầy tự tin và tự hào về “đứa con” Formosa sẽ “làm cho Hà Tĩnh và đất nước này thay đổi cơ bản… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế Hà Tính và khu vựcđây là dự án chủ lực của Hà Tĩnh. Nếu đi vào hoạt động, dự án sẽ đem lại lợi ích rất lớn. Riêng tiền thu được từ thuế cũng lên đến hàng chục tỷ USD. Ngoài ra, còn tạo ra hàng ngàn việc làm cả trong và ngoài hàng rào nhà máy…Khi đi vào hoạt động, 12 huyện thị của Hà Tĩnh sẽ trở thành khu hậu cần cho dự án. Hơn nữa, dự án sẽ tạo ra cú hích để cấu trúc lại kinh tế cho nhiều thế hệ. Đây là cơ hội tốt để người dân Hà Tĩnh đổi đời” (Tiền Phong, 10/4/2014).

Nay “cháy nhà ra mặt chuột”, ông Cự có muốn người dân Hà Tĩnh “đổi đời” bằng cách bỏ ngư trường Biển Đông (cho Trung quốc)? Sự vô minh và bất minh của ông Cự (và cộng sự) khác gì bán nước hại dân. Nhưng đến nay ông Cự vẫn khẳng định “tôi làm đúng, khi thẩm định dự án đều có ý kiến của 12 bộ nghành… sau đó báo cáo Chính phủ và được Chính phủ đồng ý…”. Theo báo Tuổi Trẻ, ngày 9/4/2008 ông Cự ký văn bản số 858/UBND-CN2 gửi Formosa nêu rõ thời hạn cho thuê đất là 70 năm. Tới ngày 8/5/2008, Hà Tĩnh mới có công văn gửi các bộ nghành xin ý kiến. Theo Thanh tra Chính phủ, ý kiến các bộ ngành không đề nghị Chính phủ cho phép thời hạn 70 năm, và tại thời điểm đó Chính phủ cũng chưa có ý kiến cho phép thời hạn trên 50 năm. Nếu đúng vậy thì ông Cự phạm tội nói dối, và đổ lỗi quanh.

Trước khi FHS đầu tư vào Khu Kinh tế Vũng Áng làm nhà máy thép Formosa và cảng biển Sơn Dương, thì Tata Group, một tập đoàn lớn có kinh nghiệm sản xuất thép hơn 100 năm của Ấn Độ cũng quyết định đầu tư vào Vũng Áng. Nhưng vì ông Cự đã chọn FHS nên Tata đành bỏ cuộc. Trả lời phỏng vấn báo Tiền Phong, ông Cự giải thích, “Đúng là Tata vào trước, đáng ra Tata phải được ưu tiên, nhưng do họ triển khai quá chậm nên Formosa đã chớp lấy cơ hội!”. Phải chăng Formosa nhanh chân hơn Tata, hay lại quả nhiều hơn, nên ông Cự cũng “chớp lấy cơ hội” bất chấp rủi ro tiềm ẩn về môi trường và an ninh?

Không biết ông Cự vì quê hương đất nước hay vì “lợi ích cá nhân” (như lời ông Quyết Thắng), mà bất chấp luật lệ và dư luận xã hội, cho Formosa hưởng quá nhiều ưu đãi (như một tô giới). Buông lỏng quản lý và giám sát đã dẫn đến thảm họa môi trường (“đúng quy trình”). Đó là quy trình gì? Làm bậy “đúng quy trình” rồi đổ lỗi để chạy tội là một đặc thù văn hóa tham nhũng kiểu Việt Nam (tham nhũng “đi vào ổn định”). Đó là quy trình siêu tốc đối với một đại dự án, khi hai bên câu kết trở thành đồng minh về lợi ích, thao túng luật lệ. Nếu Formosa đã từng thao túng chính quyền Quốc Dân Đảng tại Đài Loan thì nay (với MCC) họ thừa sức thao túng những quan tham trong chính quyền Hà Tĩnh (và Hà Nội).

Báo cáo đầu tư của Formosa lập trong 3 ngày (thật kỷ lục!). Quá trình thẩm định và phê duyệt dự án của UBND tỉnh làm trong 1 tháng. Ngày 9/4/2016, ông Cự (lúc đó là phó chủ tịch tỉnh) ký văn bản số 858/UBND-CN2 xác nhận ưu đãi đầu tư cho Formosa thuê đất 70 năm. Chỉ 2 tháng sau (12/6/2008) ông Cự đã ký giấy phép đầu tư, và chỉ 18 ngày sau (30/6/2008) bộ TN&MT đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (DTM).

Theo nhà báo Lan Anh (VTC) người đã phỏng vấn ông Chu Xuân Phàm với câu nói nổi tiếng “chọn cá hay thép” (25/4/2016), chỉ 3 ngày sau (28/4) ông Phan Tấn Linh (giám đốc sở TTTT Hà Tĩnh) đã gửi công văn cho các cơ quan chức năng, đề nghị xử lý VTC vì đã phát nội dung cuộc phỏng vấn. Tại sao ông Linh lại mẫn cán gửi công văn bênh vực Formosa và chĩa mũi nhọn vào báo chí? (tuy báo chí làm đúng chức năng). Lý giải hành động mẫn cán của ông Linh, nhà báo Lan Anh gọi đó là hành động “cõng rắn cắn gà nhà”.

Trong khi cá chết hàng loạt thì ông Đặng Ngọc Sơn (phó chủ tịch UBND) khuyên dân cứ ăn cá và tắm biển (như không có chuyện gì). Hôm đó chắc không phải là “ngày cá 1/4” và cá chết không phải là chuyện đùa. Còn ông Đặng Quốc Khánh (chủ tịch UBND) thì vẫn yên lặng một cách bí ẩn, chưa hề xuất hiện và lên tiếng (tuy 3 tháng đã trôi qua).

Đến nay, một số nhà thầu phụ Hà Tĩnh vẫn đang tiếp tay cho Formosa gây ô nhiễm môi trường bằng cách bí mật di chuyển hàng ngàn tấn rác thải các loại đi chôn trộm tại nhiều nơi (như công viên, khu dân cư) tại Kỳ Anh, Hà tĩnh, và chở hàng trăm tấn chất thải nguy hiểm ra chôn trộm tại Phú Thọ. Nếu bị phát hiện thì họ đổ lỗi quanh, và cho người hành hung báo chí. Phải chăng vì đồng tiền nên họ “đâm lao phải theo lao”? Nhưng điều đáng nói là một số quan lại địa phương vẫn vô cảm và vô can trước thảm họa môi trường (mà họ là đồng phạm). Một quan nhỏ như Phan Duy Vĩnh (phó chủ tịch thị xã Kỳ Anh) mà cũng dám coi thường công chúng khi viết trên Facebook, “Biển nhiễm chất độc từ cái mồm của các bạn.

Tiến sỹ Tô Văn Trường (một chuyên gia về môi trường) cho biết ông “không khỏi giật mình vì sự tắc trách và trình độ chuyên môn của những người có trách nhiệm phía Việt Nam trong công tác kiểm tra, và giám sát môi trường…Khuyết điểm lớn nhất không phải là cấp giấy phép xả thải hay báo cáo ĐTM mà chính là lỗ hổng về công tác kiểm tra, giám sát về môi trường của Bộ TN&MT và Sở TN&MT Hà Tĩnh…Một số người phụ trách về môi trường chẳng những làm ngơ, mà còn nhận làm thuê, đổ chất thải của Formosa không đúng quy định… Chỉ có một nguyên nhân là họ tham tiền và đã bị Formosa móc ngoặc”. (BVN, 27/7/2016).

Ông Trường còn đặt nghi vấn là ngoài chất độc đã được phát hiện là phenol, cyanua mà thủ phạm là Formosa, liệu còn chất độc nào khác chưa bị lôi ra ánh sáng? Một số người vẫn tin là phải có một lượng độc tố khác ngoài phenol và cyanua, được thải vào biển. Theo kỹ sư Nguyễn Minh Quang (Basam.info, 28/7/2016), kết quả phân tích mẫu cá chết của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt nam đã xác nhận cá chết vì ammonia. “Mọi bằng chứng khoa học về nguyên nhân cá chết hàng loạt tại miền Trung đều hướng về phía ammonia chứa trong nước thải xả từ nhà máy luyện than coke của Formosa”.

ĐBQH Trần Quốc Khánh cho rằng, Formosa là bài học cảnh tỉnh cho những ai có tư duy bất chấp tất cả để chạy theo lợi ích, kể cả lợi ích cá nhân và lợi ích địa phương… Cần phải xử lý nghiêm khắc những sai phạm tại Formosa, kể cả xử lý hình sự”. ĐBQH Trương Trọng Nghĩa cũng nói, “Tôi ủng hộ quan điểm nên thành lập Ủy ban Lâm thời để xem xét, điều tra các vấn đề môi trường nổi cộm. Trước mắt là tập trung vào trường hợp Formosa… Đã đến lúc phải rà soát lại tất cả các quy trình để xem có đủ sức ngăn chặn được những tiêu cực của những người có trách nhiệm xây dựng cũng như là phê chuẩn những quy trình đó hay không”.

Ông Vũ Quốc Hùng (nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TƯ) khẳng định. “lần này theo chỉ đạo của Trung ương, khi xem xét khuyết điểm của cán bộ thì không hề có bất cứ vùng cấm nào, bất luận người đó đương chức hay đã về hưu, ngay cả đương chức thì dù ở bất cứ chức vụ nào cũng phải bị xem xét Về xử lý nội bộ, Đảng không phân biệt một ai, kể cả là đã về hưu nhiều năm nhưng nếu có liên quan đến những sai phạm trong thời kỳ công tác thì cũng không có chuyện “hạ cánh an toàn”. Chúng ta hãy chờ xem!

Phải nhắc lại câu chuyện Formosa bởi vì đó là phần nổi của tảng băng chìm. Nó lý giải một phần tại sao Việt Nam vẫn đang mắc kẹt tại ngã ba đường. Ông Trịnh Xuân Thanh, ông Vũ Huy Hoàng, và bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường đã “lên thớt” (theo chỉ đạo của TBT) trong chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” (kiểu Việt Nam). Trận “Núi Pháo” cũng đã mở màn. Nhưng chưa biết bao giờ đến lượt ông Võ Kim Cự (và cộng sự)? Đến nay ông Cự vẫn vô can, vẫn là đại biểu Quốc Hội và Chủ tịch Liên Minh Hợp Tác Xã. Việc ông Cự “lên thớt” hay hạ cánh an toàn là thước đo lập trường của Việt Nam đối với câu chuyện Formosa và Biển Đông (sau phán quyết của PCA), và đổi mới thể chế (như khuyến nghị trong báo cáo “Việt Nam 2035”).

Miến Điện & Mông Cổ: Bài học chuyển đổi

Trong mấy thập kỷ qua, nhiều nước đã chuyển đổi thể chế chính trị từ độc tài thành dân chủ. Trong đó, Miến Điện và Mông Cổ là hai bài học thành công, đáng để cho Việt Nam tham khảo và học hỏi. Tất nhiên, bối cảnh lịch sử mỗi nước một khác, với những đặc thù kinh tế, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc cũng khác nhau, nhưng đây là hai câu chuyện chuyển đổi thành công bằng đường lối ôn hòa và không bạo lực.

Trong khi Trung Quốc và Việt Nam đổi mới kinh tế khá thành công (với các mức độ khác nhau), nhưng không đổi mới chính trị, nên đất nước đang gặp rắc rối. Việc tham khảo các mô hình chuyển đổi như Miến Điện và Mông Cổ là cần thiết, để đổi mới thể chế, nhằm giải phóng và phát huy những tiềm năng của đất nước.

Người ta đã nói nhiều về Miến Điện như một bài học chuyển đối mà Việt Nam cần tham khảo. Những người dẫn dắt quá trình chuyển đổi ôn hòa tại Miến Điện đã thành công vì họ đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích riêng. Ông Then Sein (cựu tổng thống) và bà Aung San Suu Kyu (lãnh tụ đảng NLD) đã thay đổi lịch sử Miến Điện bằng hòa giải dân tộc, chuyển đổi nền độc tài quân sự thành thể chế dân chủ. Nhưng họ mới đi được nửa đường.

Nhiều người cho rằng Miến Điện đang có dấu hiệu bất ổn, vì bà Aung San Suu Kyi đã khẳng định “ở trên tổng thống” (trong vai trò “cố vấn nhà nước”). Người ta lo rằng hành động này làm xói mòn nền dân chủ mà chính bà chủ trương. Một số người lên án đảng NLD của bà đang lạc vào chủ nghĩa độc đoán. David Matieson (một chuyên gia về nhân quyền) nhận xét, “Văn hóa trong đảng rất không minh bạch và độc đoán…Nhiều đảng viên bị khoá miệng không được nói…Họ đang thật sự cố gắng để giữ kỉ luật đảng ở mức độ phi dân chủ.”

Trong khi đó, những người khác cho rằng bà Suu Kyi cũng chỉ là con người, và là một chính khách. Để làm một chính khách khác với đoạt giải Nobel, và hoạt động dân chủ. Không nên nhầm lẫn. Trong một cuộc phỏng vấn với CNN, bà Suu Kyu nói, “Tôi đã là một chính khách từ lâu… Tôi khởi đầu làm chính trị không phải như một người bảo vệ nhân quyền, hay một nhà hoạt động nhân đạo, mà là lãnh tụ của một đảng chính trị. Nếu đó không phải là chính khách thì tôi không hiểu thế nào mới là chính khách”.

Đây là những vật vã trong quá trình phát triển (growing pains), chứ không phải bế tắc tại ngã ba đường. Miến Điện đã thoát khỏi ngã ba đường và đang trên con đường dân chủ hóa và kiến tạo đất nước. Khó khăn, thử thách còn nhiều. Bà Suu Kyu không chỉ là một “ngọn đèn hi vọng” (như lời Tổng thống Obama), mà là một tổng thống (de facto).

Bên cạnh bài học Miến Điện, bài học Mông Cổ cũng đáng suy nghẫm. Một nước nghèo, lạc hậu, dân số ít, bị kìm kẹp giữa hai nước láng giềng khồng lồ, đã trỗi dậy và chuyển đổi ngoạn mục. Trong suốt bảy thập kỷ, Mông Cổ chưa hề biết đến tự do và dân chủ, bị chìm đắm trong bóng đen của nền độc tài. Nhưng người Mông Cổ đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, đồng hành với tự do dân chủ để tiến bước về phía tương lai của dân tộc.

Tsakhiagiin Elbegdorj (sinh 1963), là lãnh tụ của phong trào dân chủ Mông Cổ, được ca ngợi như là Thomas Jefferson của Mông Cổ. Khi từ Moscow trở về nước (năm 1989), hành trang của anh sinh viên 26 tuổi này không phải là tài liệu sách vở về CNXH học được tại trường đảng Moscow mà là những thay đổi từ chính sách Glasnost của Gorbachev. (Theo Trần Trung Đạo, “Dân cần minh bạch”,Danlambao.vn, 21/5/2016).

Elbegdorj tin rằng chỉ có dân chủ mới cứu được Mông Cổ. Trong bài phát biểu (28/11/1989), Elbegdorj đã nhấn mạnh, “Mông Cổ cần dân chủ và minh bạch…”  Mông Cổ phải chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ bằng một cuộc cách mạng bất bạo động.

Cuộc biểu tình tuyệt thực đầu tiên ngày 10/12/1989 chỉ có 13 “tên phản động” (do Elbegdorj cầm đầu). Ngày nay người Mông Cổ gọi họ một cách kính trọng là “13 nhà dân chủ Mông Cổ đầu tiên”. Cuộc cách mạng dân chủ không làm rơi một giọt máu nào là do hầu hết 2.1 triệu dân Mông Cổ dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, trong số đó có Tổng Bí Thư Đảng Công sản Jambyn Batmönkh. Năm 1998, khi cách mạng thành công, Elbegdorj được bầu làm Thủ Tướng, và năm 2009 ông được bầu làm Tổng thống Cộng Hòa Mông Cổ.

Elbegdorj đã biến điều không thể thành có thể. Về đối nội, Mông Cổ từ bỏ chính sách “kinh tế kế hoạch hóa tập trung” theo mô hình Liên Xô cũ, và áp dụng chiến lược “hai chọn một”. Về đối ngoại, từ 1994, Mông Cổ theo phương châm “ngoại giao trong thế cân bằng về khoảng cách”.  Từ cuối thập niên 1990, Mông Cổ thực hiện chính sách “láng giềng thứ ba”, và đến năm 2015, đề xuất ý tưởng “nước trung lập vĩnh viễn”. Mông Cổ đã từng bước phá thế kìm kẹp địa chính trị để tạo ra bước nhảy vọt, mở rộng không gian sinh tồn cho mình.

Mông Cổ coi mối quan hệ cân bằng với Nga và Trung Quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chính sách ngoại giao của mình. Tháng 8/2014, tại Ulan Bator, Mông Cổ và Trung Quốc đã ra tuyên bố chung về “xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện”. Đồng thời, ngoài Nga và Trung Quốc, Mông Cổ đã phát triển quan hệ hợp tác với các nước lớn khác như Mỹ, Nhật và Đức theo chính sách “láng giềng thứ ba”.

Vai trò của của Ulan Bator trong vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên cũng như mở rộng đối thoại đa phương đã giúp Mông Cổ có vai trò quan trọng trên thế giới. Mông Cổ đã dần trở thành cầu nối giữa Triều Tiên và các nước Đông Bắc Á, và đã tận dụng ưu thế này để trở thành nước hòa giải giữa Triều Tiên và Hàn Quốc. Mông Cổ đã đề xuất sáng kiến “Đối thoại Ulan Bator” nay trở thành diễn đàn đa phương quan trọng, bên cạnh vòng đàm phán 6 bên do Bắc Kinh khởi xướng. Khi Đàm phán 6 bên bị đình trệ thì “Đối thoại Ulan Bator” là kênh đàm phán hiệu quả nhất giữa Bình Nhưỡng với thế giới.

Nói tóm lại, Mông Cổ đã dũng cảm và khôn ngoan chuyển đổi thành công, mà vẫn giữ được độc lập chủ quyền, trong khi Việt Nam vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường.

Thay lời kết: Lối thoát nào cho Việt Nam

Trong lịch sử gần đây, không có một chính thể độc tài nào (kể cả Miến Điện và Mông Cổ) lại tình nguyện từ bỏ độc quyền và độc tài, nếu không có đủ sức ép đòi đổi mới. Mọi chuyển đổi (dù ôn hòa và bất bạo động) đều phải từ dưới lên (bottom up), chứ không chỉ từ trên xuống (top down). Điều kiện thiết yếu là phải dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, để đưa dân tộc tiến tới tự do dân chủ (như Miến Điện và Mông Cổ).

Đặc điểm của những người không dám đoạn tuyệt với quá khứ là họ chỉ phê bình hiện tượng, nhưng tránh nhắc đến bản chất, chỉ nói đến hệ quả nhưng bỏ qua nguyên nhân, chỉ nói lên thực trạng xã hội mà không lý giải nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng đó. Có lẽ hầu hết là sản phẩm của ý thức hệ đã thấm dần và ăn sâu vào tiềm thức thành thói quen tư duy. Họ thường  hoài nghi những thay đổi “không chính thống”, mà không hiểu rằng chế độ đã bị thao túng bởi các nhóm lợi ích bất minh như tư bản đỏ và xã hội đen.

Bị ngộ độc bởi ý thức hệ cực đoan, lòng tin gần như vô thức của nhiều người quen lệ thuộc vào cơ chế xin cho và ban phát. Nay dù ủng hộ tự do dân chủ, nhưng tâm thức và thói quen tư duy của họ vẫn chưa thoát khỏi ám ảnh về cực đoan và bạo lực, là hệ quả của chiến tranh. Mọi thay đổi đều có quy luật và phải trả giá. Đổi mới thể chế tại Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Phải từ bỏ cực đoan và bạo lực. Không thể thay thế độc quyền này bằng độc quyền khác. Muốn thoát Trung và thoát khỏi ngã ba đường, phải ra khỏi cái hang ý thức hệ. Einstein đã từng nói, “không thể giải quyết vấn đề bằng chính tư duy đã tạo ra vấn đề đó”.

NQD. 29/7/2016

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Con bị cha đốt, mẹ bị thẩm phán gạ tình

Con bị cha đốt, mẹ bị thẩm phán gạ tình

Chị Lê Thị Hà người mẹ khốn khổ trong vụ án “cha tẩm xăng đốt con” gây phẫn nộ dư luận mới đây vừa tiết lộ thêm một tình tiết bất ngờ. Theo chị, vị thẩm phán thụ lý đơn xin ly hôn với người chồng vô nhân tính đã gạ tình, vòi tiền nên việc xin ly hôn của chị bị trì hoãn.

Theo xác minh của PV báo Nguoiduatin.vn, không chỉ chị Hà mà có ít nhất 3 người phụ nữ nữa cũng tố cáo vị thẩm phán này từng gạ tình, vòi tiền khi họ đến tòa xin ly hôn.

Chị Lê Thị Hà, mẹ của bé Vũ Quốc Linh bị cha tẩm xăng đốt

Vừa gạ tình, vừa vòi tiền?

Do mâu thuẫn gia đình, chị Lê Thị Hà (Nông Cống – Thanh Hóa) gửi đơn lên tòa án xin ly hôn. Không đồng ý với quyết định của vợ, anh Vũ Văn Quang (31 tuổi) dội can xăng 2 lít vào con trai, châm lửa ngay trớc cửa nhà mẹ vợ. Theo đó, năm 2006, chị Lê Thị Hà kết hôn với anh Vũ Văn Quang (31 tuổi – xã Tế Thắng – Nông Cống – Thanh Hóa), sau đó chị sinh bé Vũ Quốc Linh. Ở với nhau mới được một thời gian ngắn, đôi vợ chồng trẻ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Hơn một năm trước, chị Hà đã làm đơn ly thân và bỏ nhà lên thành phố đi làm.

Cảm thấy không thể cứu vãn được cuộc hôn nhân này, chị Lê Thị Hà đã gửi đơn đến tòa án xin ly hôn. Lá đơn ly hôn đã không được anh Vũ Văn Quang chấp thuận mà còn dọa sẽ giết chết cả nhà.

Khoảng 8h sáng 27/4, anh Vũ Văn Quang đưa con trai là Vũ Quốc Linh 3 tuổi đến nhà mẹ vợ ở xã Tế Tân. Anh ta lớn tiếng dọa sẽ dùng xăng thiêu sống con sau đó sẽ chết theo.

Người nhà chạy ra can ngăn, Quang bế con phóng xe máy bỏ đi. Khoảng 30 phút sau, anh ta quay lại mang theo can xăng 2 lít. Trước cổng nhà mẹ vợ, Quang dội can xăng 2 lít vào con trai, nhẫn tâm châm lửa đốt chính con trai của mình. Ngọn lửa bốc lên, người nhà vội bế cháu Linh nhảy xuống ao gần đó. Khi đưa lên bờ thì toàn thân cháu bé như một hòn than đen, hai mắt có nguy cơ bị hỏng nặng.

Sau khi được phát hiện và đưa đi cấp cứu kịp thời đến nay cháu đã qua cơn nguy kịch.

Gây tội ác xong, Vũ Văn Quang lẩn trốn vào nhà người thân. Sau đó 1 tiếng, hung thủ đã bị bắt và được giao cho công an huyện Nông Cống – Thanh Hóa.

Chị Lê Thị Hà cho biết, trong thời gian chờ Tòa giải quyết vụ án ly hôn, thẩm phá D. (người thụ lý đơn xin ly hôn của chị) nhiều lần có biểu hiện gây khó dễ cho chị. Do muốn nhanh chóng thoát khỏi người chồng vũ phu, chị Hà đã đồng ý làm theo gợi ý của ông D. Cụ thể, thông qua một người ở cùng xã, chị Hà đã đưa cho người này 2 triệu đồng để đưa trước cho thẩm phán D. (trong tổng số tiền 3 triệu đồng để vụ việc sớm được đưa ra xét xử theo như thỏa thuận). Sau đó, thẩm phán D. hứa trong vòng một tuần sẽ đưa vụ ly hôn ra xét xử. Nhưng phải đến gần một tháng sau (ngày 21/4/2011) phiên tòa mới được mở và phải tạm dừng do chồng Hà đổ xăng dọa thiêu con giữa phòng xử.

Tiếp đến, thẩm phán D. còn đòi thêm 1 triệu tiền “chi phí đi lại” để vào xã Tế Tân, quê của chị Hà làm việc, nhưng ý định chưa thành thì xảy ra việc chồng chị Hà đốt cháu bé gây phẫn uất trong dư luận vừa qua và vì thế vụ xét xử ly hôn đến nay vẫn chưa tiến hành được.

Không chỉ có chị Lê Thị Hà mà một phụ nữ khác cũng tố cáo thẩm phán D. có hành vi vòi tiền là chị Đới Thị H (SN 1985, ngụ xã Công Liêm, huyện Nông Cống). Theo chị H, vào cuối năm 2010, vợ chồng chị làm đơn lên tòa xin ly hôn. Do phải chờ đợi lâu trong khi muốn được giải quyết nhanh chóng việc ly hôn giữa mình và chồng nên chị đã nhiều lần gặp thẩm phán D. bày tỏ nguyện vọng, nhưng thẩm phán D. nêu khó khăn và nói muốn nhanh được việc thì phải chi 2 triệu đồng.

Sau đó, do chồng chị xuống nhà gây sự, dọa hành hung chị và bắt con chung của hai người nên chị đành đồng ý chi tiền để nhanh xong việc. Vào khoảng thời gian giữa tháng 01/2011, chị tìm gặp và đưa tiền, được thẩm phán D. hứa sẽ đưa vụ án ra xét xử vào ngày 29/03/2011. Đến chiều 20/04/2011 vụ án mới được xử và trước khi xử “Anh D. còn gọi điện bảo tôi lên phòng làm việc rồi kêu đau đầu, ngồi ngả người trên ghế, bắt tôi phải mát xa đầu, bóp vai. May mà vừa khi ấy, có một anh công an vào nên tôi đã thoát ra được”-chị H kể lại.

Ngoài hai trường hợp đã nêu, 2 phụ nữ khác tại huyện Nông Cống cũng tố cáo thẩm phán D đã vòi tiền và có những hành vi bất thường với mình khi thụ lý vụ ly hôn mà các chị là đương sự. Chị Vũ Thị N (SN 1965, ngụ xã Công Bình) tố cáo đã phải ba lần đưa cho thẩm phán D tổng số tiền 1.950.000 đồng mới được giải quyết ly hôn. Còn theo tường trình của chị Nguyễn Thị H (SN 1983, ngụ xã Tượng Sơn), năm 2008, khi làm đơn ly hôn với chồng là một phạm nhân đang thụ án tại trại giam Ninh Khánh (Ninh Bình), chị đã nhờ thẩm phán D cùng đi với mình ra trại giam gặp chồng để làm thủ tục ly hôn. Khi hai người ngồi trên xe ô tô từ Nông Cống ra Ninh Bình, chị đã bị thẩm phán D nhiều lần có hành vi sàm sỡ. Chưa dừng lại ở đó, lúc xong việc quay về, ông D còn gợi ý chị phải vào nhà nghỉ, khách sạn nhưng chị không đồng ý.

“Không đạt được mục đích, ông D quay sang đòi tiền, nhưng tôi bảo tôi nghèo lắm, chỉ có hai trăm nghìn đã đưa anh hôm nọ, giờ không còn tiền nữa”-chị H kể lại.

Cần làm rõ, xử lý nghiêm sự việc

Để làm sáng tỏ vụ việc, sau khi gặp gỡ các nhân chứng, PV Nguoiduatin.vn đã có buổi làm việc với bà Nguyễn Thị Huệ, Chánh án TAND huyện Nông Cống và cả thẩm phán D -người bị tố cáo “gạ tình, vòi tiền” đương sự. Ông D thừa nhận đã từng được giao thụ lý các vụ ly hôn của các đương sự trên và gặp gỡ, làm việc với những phụ nữ nêu trên. Tuy nhiên, ông D khẳng định hoàn toàn không có hành vi gạ tình, tiền các đương sự như bị tố cáo.

Theo ông, có thể vụ việc này bắt nguồn từ một ai đó vì ghen tức nên tìm cách dụ dỗ, xúi giục họ làm việc này, mục đích để bôi nhọ, hạ uy tín cá nhân ông.

Chánh án Nguyễn Thị Huệ cho biết, trước khi chuyển về Tòa án huyện Nông Cống vào năm 2004, ông D từng có 10 năm công tác tại TAND huyện miền núi Quan Hóa. “Từ khi về cơ quan đến nay, Thẩm phán D luôn gương mẫu trong công tác, giữ gìn đạo đức, tác phong người cán bộ tòa án, chưa hề có bất cứ vi phạm gì. Do có tín nhiệm cao trong cơ quan, vừa qua, Thẩm phán D đã được tái bổ nhiệm chức danh Thẩm phán. Tôi hoàn toàn bất ngờ trước thông tin báo chí vừa nêu và không tin cán bộ của mình có những hành vi như nội dung tố cáo”, bà Huệ nói.

Trong cuộc làm việc này, PV báo Nguoiduatin.vn cũng đã bật cho ông D. nghe những đoạn băng ghi âm các đương sự nữ tố cáo. Sau một hồi suy nghĩ, ông D. xin đứng dậy uống nước để lấy lại bình tĩnh và sau đó không có phản hồi gì trước những lời tố cáo vừa nghe.

Trả lời PV báo Nguoiduatin.vn về những lời tố cáo xung quanh nghi án làm tiền, gạ tình của Thẩm phán D. Chánh án TAND tỉnh Thanh Hóa Nguyễn Thành Bộ cho biết: “Đương sự cũng nhiều vấn đề lắm, thông tin đưa ra có thể đúng hoặc không đúng, nếu sai thì sau đó lại phức tạp ra. Nếu thông tin trên là đúng, chúng tôi sẽ có hội đồng kỷ luật của tỉnh đấu mối với huyện để xem xét”.

Câu hỏi mà dư luận hiện đang quan tâm đặt ra là có hay không việc gạ tình, tiền các đương sự của Thẩm phán D.? Theo chúng tôi, câu hỏi này cần được lãnh đạo ngành Tòa án tỉnh Thanh Hóa khẩn trương làm rõ, xử lý nghiêm minh; bảo vệ uy tín, sự trong sạch cho cán bộ Tòa án nếu sự tố cáo trên chỉ là vu cáo, bôi nhọ.

Theo Người đưa tin

Categories: Tin Trong Nước | Leave a comment

Với anh Đại Hán phải “KÍNH nhi VIỄN chi”, tiếp ông Cận Bình phải hiểu lẽ Cận và Viễn

Với anh Đại Hán phải “KÍNH nhi VIỄN chi”, tiếp ông Cận Bình phải hiểu lẽ Cận và Viễn

Hà Sĩ Phu 

  1. Coi chừng trở thành cánh quân thứ hai của giặc bành trướng

Nhân dân Việt Nam, mà đại biểu là những người yêu nước, tử tế, thức tỉnh và dám nói đã bộc lộ thái độ đối với ông Tập Cận Bình trong chuyến thăm Việt Nam lần này, mà những lời tuyên bố, những bài viết và những tấm hình như dưới đây có thể lấy làm ví dụ.

 

Nguồn ảnh: Anh Ba Sàm

Ta rất quý những tiếng nói từ lương tâm, từ lòng yêu nước như vậy, nhưng chưa dễ gì đưa xã hội ra khỏi cơn lúng túng như đèn cù, vẫn thấy có dòng hành quân không nghỉ nhưng chỉ lát sau tất cả lại về chỗ cũ. Hôm nay tuy “khách quý” (chữ của ông Trần Công Trục) chưa đến nhưng kết quả chuyến thăm viếng thế nào thiết tưởng đã có thể đoán trước.

Nhất định là chuyến thăm lần này của họ Tập đến Việt Nam (như thăm một nạn nhân của chủ nghĩa Bành trướng Đại Hán) vẫn sẽ đạt được những mục đích mà họ dự định, đạt những ý đồ mà họ mong muốn, mà không gặp trở lực nào từ phía Việt Nam. Đừng ai ngạc nhiên khi thấy “nạn nhân” vẫn hân hoan đón rước anh xâm lược, vẫn cung kính tưng bừng, nạn nhân có giẫy giụa hay phản kháng gì đâu? Vẫn ôm 16 chữ vàng để gìn giữ cái tài sản chung quý giá mà hai bác Mao-Hồ đã dày công vun đắp. Vẫn những thứ cũ, êm ru, có mới chăng là ở chỗ con sói đã nhích chân vào nhà chủ được thêm một bước, nạn nhân bị khóa chặt thêm một mắt xích, và nội bộ người Việt thì càng hiểu rõ lòng dạ của nhau hơn thôi.

Có thể sẽ lại được giải thích về những cố gắng kiên trì khôn ngoan gì đó, thắng lợi to lớn gì đó của nhà cầm quyền Việt Nam. Cứ tạm cho những cái gọi là cố gắng ôn hòa khôn ngoan ấy là thực tâm muốn cho nước nhà tốt đẹp đi chăng nữa, nhưng thử nghĩ mà xem, nếu không có những hoạt động như vậy từ phía ĐCSVN thì một kẻ cao cờ thâm hiểm như Trung quốc đương nhiên sẽ phải rất tốn công phu để tạo dựng cho được một cánh quân thứ hai, phối hợp với cánh quân thứ nhất là đội quân xâm lăng lộ liễu. Cánh quân thứ hai này có chức năng phải chống xâm lược bằng nước bọt để dân nghe cho sướng mà yên lòng, nhưng đồng thời phải dẹp tan những cuộc biểu tình thực sự muốn chống xâm lược, phải ngăn cản sự hỗ trợ quốc tế bằng cách khước từ sự can dự của nước thứ ba và không kiện ra Liên Hiệp Quốc… Tóm lại, cánh quân thứ hai này che chắn cho cánh quân thứ nhất xâm lược được trọn vẹn. Liệu có lúc nào những người “đảng viên nhưng mà tốt” giật mình, thấy mình ủng hộ cấp trên làm những điều như thế là vô tình trở thành cánh quân thứ hai của bọn Tàu xâm lược hay không? Cũng xin thưa thêm rằng kẻ đánh thuê mà không biết mình đánh thuê, cứ tưởng mình chân chính thì kẻ ấy mới càng nguy hiểm. Vẫn có rất nhiều ngụy biện để lừa dối người dân nhưng tôi tin rằng vẫn còn những người không dối nổi lương tâm.

Vì vậy, để hy vọng về một viễn cảnh tốt hơn, họa chăng ra khỏi cái vòng luẩn quẩn như đèn cù, ta thử học người thầy thuốc, muốn chữa bệnh phải tìm được cái gốc đã sinh ra bệnh. Thử đặt câu hỏi: Ông cha ta đã ứng xử thế nào để thoát khỏi bàn tay ghê gớm của con mãnh thú bành trướng, 1000 năm Bắc thuộc chứ ít gì đâu thế mà thoát được? Thoát được rồi, nhưng vì sao đến thế hệ ngày nay, với bao nhiêu thuận lợi hơn ngày xưa mà nguy cơ Bắc thuộc có thể trở lại, trở lại một cách khó gỡ?

Dù biết mình còn nhiều điều nông cạn nhưng cũng mạn phép được góp một nhời bàn về kế sách Thoát Trung của các tiền nhân.

  1. Quy luật CẬN và VIỄN trong quan hệ Việt Trung

Với Trung quốc nên gần hay nên xa?

Xin thưa ngay: nên gần, nhưng đừng gần quá, phải giữ khoảng cách, đừng chui vào tay áo người ta.

– Không có nước nào gần gũi và nhiều duyên nợ với Việt Nam hơn nước Trung quốc.

– Không có người dân nào gần gũi và dễ hòa hợp với dân Việt Nam hơn những người dân “đồng văn đồng chủng” Trung Hoa.

– Không có nền văn hóa nào gần gũi, ảnh hưởng nhiều đến văn hóa Việt Nam hơn văn hóa Trung Hoa, đó là một trong vài nền văn hóa vĩ đại của thế giới.

Với một đối tượng như thế sao lại không nên gần gũi? Gần để học cái Thiện mà theo, để biết cái Ác mà chống (1). Một nhân dân nhiều người tài giỏi thế, một Văn hóa nhiều nét đặc sắc thế chẳng những nên gần mà còn nên kính trọng. Nhưng cũng chính Khổng Tử khi nói về sự kính trọng lại đề xuất một cách ứng xử “Kính nhi viễn chi” (kính nhưng mà phải đứng xa) để đối xử với “Quỷ thần”, bởi “Quỷ thần” không phải là người thường như ta, kính trọng mà gần gũi quá thì sinh vạ. Tổ tiên người Việt đã ứng xử với yếu tố Trung Hoa một cách“Kính nhi viễn” đúng như vậy nên đã thành công.

Số mệnh truyền kiếp nước Việt phải kề môi kề răng với một con mãnh thú khổng lồ, kình địch với nó cũng chết mà co rúm trước nó cũng chết. Vậy mà nước Việt ta trải bốn nghìn năm không chết. “Đinh Lê Lý Trần” vẫn cứ sánh vai cùng “Hán Đường Tống Nguyên” mà “hùng cứ một phương”, là bởi biết tìm ra luật ứng xử “viễn cận”. Bình thường thì gần gũi và nhún nhường, chấp nhận triều cống, kể cả việc xin làm dâu làm rể Thiên triều. Nhưng nếu Thiên triều giở mặt, nhe nanh muốn nuốt chửng ta thì toàn dân ta trên dưới một lòng, đem hết sức bình sinh quyết một phen sống mái, đánh cho đoàn quân Thiên triều tan tác, xác chết đầy sông đầy gò. Nhưng thắng mà không kiêu (như kiểu kiêu của Lê Duẩn sau này), không tận diệt mà mở đường cho địch rút, sau đó lại chủ động hiếu hòa.

Sách lược lúc gần lúc xa, lúc cương lúc nhu sở dĩ được tiến hành nhịp nhàng thành công như vậy là cốt ở hai điều: một là khi thân thiết vẫn phải giữ khoảng cách, không để cho Tàu chiếm được những nơi huyết mạch, hai là lúc kháng cự phải có sức mạnh tổng lực trên dưới một lòng quyết đánh cho giặc chẳng những phải thua mà còn phải nể sợ đến mức phải từ bỏ dã tâm xâm lược. Lúc Cận lúc Viễn đều có chừng mực như vậy làm cho gã khổng lồ đành phải nuốt hận, để cho nước Việt nhỏ tồn tại, đô hộ tới cả ngàn năm mà đồng hóa không nổi, từng tấc giang sơn của họ vẫn được giữ nguyên.

Bài học “Kính nhi viễn chi” ấy tổ tiên người Việt ta đã phải trả bằng máu xương suốt nghìn năm nô lệ và đã thành công. Rất cẩn trọng nhưng linh hoạt, không được thái quá cũng không bất cập.

Nhưng sự du nhập chủ nghĩa Cộng sản đã phá tan tành cái cẩm nang giữ nước ấy của ta. Bởi bản chất của chủ nghĩa Cộng sản là vừa quá tả lại vừa quá hữu, vừa thái quá lại vừa bất cập. Lẽ Cận -Viễn không thể điều hòa, khi Cận khi Viễn đều thái quá. Quan điểm phân chia giai cấp-địch ta và đấu tranh không khoan nhượng, một mất một còn, tạo ra rất nhiều kẻ thù và hờn oán, đó là mặt quá tả, đối với người khác mình thì đẩy ra xa (Viễn) và quy thành địch. Nhưng lại mơ tưởng một thế giới đại đồng, một thứ hữu ái giai cấp không biên giới, đó là mặt quá hữu khuynh, đã gần (Cận) thì lại gần quá, mất cảnh giác một cách ngây thơ trước bản năng bất thiện vẫn tiềm tàng dù là đồng chí. Cả hai mặt quá đà, quá khích này đều gây tai họa cho dân Việt Nam. Sự lạc quan tếu về tình cảm “vô sản đại đồng” chẳng những làm nhòe ranh giới giữa công dân và người cầm quyền xã hội bằng quan hệ cha con, bác cháu, mà củng làm nhòe ranh giới quốc gia bằng quan hệ “anh cả Liên xô, chị hiền Trung quốc” như một đại gia đình vô sản. Khốn nỗi sự xóa nhòa những ranh giới tự nhiên ấy một mặt ru ngủ những con cừu ngờ nghệch, nhưng mặt khác chẳng những không lòe được những con hổ con sói tinh khôn mà còn đánh thức bản năng tham lam của chúng và tạo cơ hội cho chúng nuốt chửng những “đồng chí” nhỏ yếu hơn, khác nào quan hệ đồng thuận và hợp tác của mãnh thú với con mồi trong cái ảo ảnh của thế giới đại đồng Cộng sản. Chủ nghĩa đại đồng ảo tưởng đã tạo ra những con mồi đầy tính tự nguyện hiến dâng. Phải chăng đó chính là cái “tài sản chung quý giá” mà một nước Việt nhỏ bé với mãnh thú Đại Hán khổng lồ Đại Hán mà hai “Bác” đã dày công vun đắp. Đại Hán cố giữ “khế ước” ấy làm cái gông, cái bẫy, để nước nhỏ bé không cựa được, chứ nước Việt bị thua thiệt đang cần thoát gông thì giữ cái đó làm gì?

Tóm lại là toàn bộ âm mưu đô hộ kiểu mới của Đại Hán đối với Việt Nam được thiết kế trên cái nền Cộng sản. Chừng nào còn đứng chung trên cái mặt bằng Cộng sản chung ý thức hệ ấy thì dân Việt vẫn như bị ngồi trên con tàu đã thiết kế sẵn đường ray. Dân Việt muốn chạy thoát khỏi cơn nô lệ mới chỉ có một cách là từ bỏ cái nền tảng ấy, mặt bằng ấy, con tàu ấy, đường ray ấy. Đó là đáp số duy nhất cho bài toán của Dân tộc chúng ta. Nhưng lối thoát ấy đã vướng một cái khóa do chính quá trình cũ tạo ra. Cái khóa hóc hiểm rất khó mở ấy là: tuy con tàu bị định hướng sai khiến cho hành khách bức xúc và muốn thoát ra nhưng đội ngũ lái tàu và tập đoàn thân hữu kiểm soát trên tàu của họ đã thu được lợi quyền kếch xù nhờ quỹ đạo sai đó, thì họ phải ơn cái quỹ đạo đó đến muôn năm. Nghe hành khách, bỏ đường ray ấy, bỏ con tàu ấy thì lợi quyền vua chúa kia đâu còn như cũ?

Câu chuyện bi hài của dân Việt mình suy cho cùng cũng đơn giản thế thôi. Những anh xu thời được vận may, kiếm chác được ít nhiều thì cũng có thể rộng lòng bỏ qua cho họ, nhưng sẽ không thể chấp nhận nếu họ cúi đầu bán rẻ linh hồn cho quỷ Bắc Kinh, làm nhục cho cả dân tộc, đắc tội trước công lao và xương máu của tổ tiên muôn đời nước Việt. Đảng CSVN đã đi quá đà trong việc gần gũi với Tàu, để quân Tàu gần gũi quá sâu vào nội tình, nội địa của mình mà không biết chính sách “Viễn-Cận” nham hiểm của Tàu là “Viễn giao, Cận công”, tức kết bạn với nước ở xa nhưng phải trừng trị, phải đánh, phải dạy những nước ở gần. Thế thì kẻ núp vào ống tay áo của Tàu hãy coi chừng vì ắt có ngày toi mạng!

Tóm lại, đối với anh Tàu Đại Hán, nước Việt ta phải theo gương tổ tiên mà “Kính nhi viễn chi”, phải làm cho họ hiểu rằng “chúng em rất kính trọng các ông, nhưng xin các ông đứng xa ra một chút, giữ đúng cự ly an toàn cho chúng em nhờ! Nếu không… Bạch Đằng – Đống Đa còn đó! Ý Đảng Cộng sản thế nào? Chứ lòng Dân tôi quyết là như vậy. *

Điều trớ trêu là khi dân đang bảo nhau thực hiện cho được chữ VIỄN để giữ khoảng cách an toàn trước anh Đại Hán thì đại diện đại quốc lại có ông rất CẬN sang chơi là ông CẬN Bình họ Tập. Cái lẽ VIỄN-CẬN lại được một phen thử thách.

Nhớ chữ trong Tam tự kinh, đang muốn “Tập tương VIỄN” là tập xa nhau ra, thì lại tiếp ông Tập CẬN Bình, vậy phải “tập” thế nào đây, “tập” cho gần nhau thêm nữa thì khốn!

Đừng quên cẩm nang Thoát Trung là KÍNH nhi VIỄN! Bởi KínhKính Cận quá e nhìn không thấy kẻ thù.

3-11-2015

Hà Sĩ Phu

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Việt Nam ‘chuẩn bị đương đầu với TQ’

Việt Nam ‘chuẩn bị đương đầu với TQ’

  • 18 tháng 12 2015

Image copyrightREUTERS
Image captionQuân đội Việt Nam đang tăng cường vũ trang để phòng ngừa xung đột

Quân đội Việt Nam đang tăng cường vũ trang để chuẩn bị nếu xảy ra xung đột với Trung Quốc sau một thập niên dài trên đường hiện đại hóa. Đây là đợt trang bị quân sự lớn nhất của Hà Nội kể từ đỉnh điểm cuộc chiến tranh Việt Nam.

Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là đánh đuổi người hàng xóm khổng lồ khi căng thẳng lên cao vì xung đột ngoài Biển Đông. Nếu mục tiêu này không đạt được, thì Việt Nam vẫn có thể tự vệ trên mọi mặt trậnkhác, các quan chức cao cấp và giới thạo tin nói với Reuters.

Chiến lược của Việt Nam đã vượt xa kế hoạch phòng ngự. Các đơn vị chủ chốt đã được đặt vào vị trí “sẵn sàng chiến đấu cao” – một tín hiệu cho thấy sẵn sàng cho việc bị tấn công bất ngờ. Cả Sư đoàn 308 tinh nhuệ trấn giữ vùng núi phía Bắc cũng được đặt vào tình trạng này.

Việt Nam và Trung Quốc từng có cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu năm 1979. Điểm bùng phát bây giờ có thể là Biển Đông, nơi cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

“Chúng tôi không muốn có xung đột với Trung Quốc và chúng tôi phải đặt niềm tin vào chính sách ngoại giao của mình.” – Một quan chức cao cấp của chính phủ Việt Nam đề nghị giấu tên cho Reuters biết. “Nhưng chúng tôi biết mình cần phải sẵn sàng cho điều tồi tệ nhất.”

Đáng chú ‎ ý hơn cả, Hà Nội đang xây dựng lực lượng phòng vệ hải quân rất lớn từ chỗ gần như không có gì, bằng việc mua sáu tàu ngầm lớp Kilo cao cấp từ Nga.

Trong vài tháng gần rồi, chiếc tàu ngầm đầu tiên đã bắt đầu tuần tra trên Biển Đông, các quan chức quân sự Việt Nam và nước ngoài cho biết, và đây là xác nhận đầu tiên về sự hiện diện của tàu ngầm Việt Nam trong vùng biển chiến lược.

Sư đoàn 308

Về mặt quân sự, có thể thấy phần nào không khí căng thẳng tại trụ sở Sư đoàn 308 phía tây bắc Hà Nội. Đây là đơn vị quân đội tinh nhuệ nhất của Việt Nam, nơi các tướng lãnh quân sự cao cấp liên tục nhắc đến việc “sẵn sàng chiến đấu cao”.

Image copyrightREUTERS
Image captionSư đoàn 308 là lực lượng tinh nhuệ nhất của quân đội Việt Nam

Cụm từ này được ghi trên bảng lớn bên dưới ảnh tên lửa và chân dung người sáng lập cách mạng Việt Nam, ông Hồ Chí Minh, cùng ảnh anh hùng quân đội huyền thoại, Tướng Võ Nguyên Giáp.

Nằm ở giữa vùng núi non hiểm trở phía bắc Việt Nam và những cánh đồng lúa cổ xưa của đồng bằng Sông Hồng, Sư đoàn 308 là đơn vị quân đội lâu đời nhất của Việt Nam và vẫn đang trấn giữ hiệu quả khu vực phía Bắc tiếp giáp Hà Nội.

Một quan chức cao cấp, Đại tá Lê Văn Hải [Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 308], nói ông không thể bình luận về Trung Quốc, cho thấy sự nhạy cảm của chủ đề này về mặt chính thống. Nhưng Việt Nam sẵn sàng đẩy lùi bất cứ lực lượng nước ngoài nào, ông nói với Reuters trong cuộc viếng thăm hiếm hoi của một phóng viên nước ngoài.

Ông Lê Văn Hải phát biểu: “Sẵn sàng chiến đấu là ưu tiên hàng đầu của sư đoàn, của Bộ Quốc phòng và của quốc gia. Chúng tôi có thể xử lý bất kỳ tình huống bất ngờ hoặc không mong đợi nào… Chúng tôi luôn sẵn sàng.”

“Sẵn sàng chiến đấu cao”, cùng với các đề cập về “tình hình mới”, đang được nhắc đến nhiều hơn trong các diễn văn của quan chức cao cấp khi đến thăm các căn cứ quân sự và trên nhiều ấn phẩm của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Giới chức ngoại giao nói cụm từ này cũng thường được nhắc đến trong các cuộc gặp với các phái đoàn quân sự nước ngoài.

Giáo sư Carl Thayer, từ Học viện Quốc phòng Úc tại Canberra, người đã nghiên cứu quân sự Việt Nam từ cuối thập niên 1960, cho biết: “Khi Việt Nam nhắc đến “tình hình mới” thì là họ đang sử dụng một cụm từ được mã hóa đề cập đến khả năng đối đầu hoặc xung đột quân sự ngày càng cao với Trung Quốc, đặc biệt là trên Biển Đông”.

Image copyrightREUTERS
Image captionViệt Nam đã mua sáu tàu ngầm lớp Kilo của Nga

Trong khi chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, các tướng lĩnh một thời tách biệt với thế giới của Hà Nội nay đang vươn ra tìm đối tác chiến lược đa dạng. Nga và Ấn Độ là nguồn cung cấp vũ khí hiện đại, huấn luyện và hợp tác tình báo. Hà Nội xây dựng quan hệ chặt chẽ với Mỹ và các đồng minh như Nhật, Úc, Philippines, cũng như Châu Âu và Israel.

Kết quả của việc vươn ra bên ngoài là các đợt mua bán vũ khí, các chuyến tàu đến thăm và hoạt động chia sẻ thông tin tình báo, tuy nhiên có giới hạn. Hà Nội không tham gia liên minh quân sự với các nước vì trung thành với chính sách ngoại giao độc lập.

Các nguồn tin nói với Reuters Việt Nam đang muốn mua thêm máy bay ném bom Nga và đang đàm phán với các nhà sản xuất vũ khí Châu Âu, Mỹ để mua thêm máy bay chiến đấu, máy bay tuần tra biển, và trinh thám không người lái. Việt Nam mới đây cũng nâng cấp và mở rộng lực lượng phòng không, trang bị thêm radar giám sát cảnh báo sớm, và các hệ thống tên lửa đất đối không từ Nga.

Viện nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) ước tính rằng chi tiêu quân sự của Việt Nam đã tăng vọt và bỏ xa những hàng xóm Đông Nam Á khác trong thập niên vừa rồi.

Ông Tim Huxley, một chuyên gia an ninh khu vực tại Viện nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ở Singapore, nhận xét: “Họ không làm việc này chỉ để diễu binh… họ đang thực sự xây dựng sức mạnh quân đội”.

Điểm bùng phát giàn khoan

Mặc dù các đảng cộng sản đang lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ sự tương đồng về chính trị, hai quốc gia này đã từng có lịch sử xung đột vũ trang và một thời gian dài mất lòng tin vào nhau.

Image copyrightAP
Image captionKhi giàn khoan Hải Dương 981 được Trung Quốc đưa vào vùng biển tranh chấp, căng thẳng đã bùng phát

Một nghiên cứu mới tiết lộ cuộc chiến tranh Việt – Trung năm 1979 thực ra khốc liệt hơn người ta từng biết rất nhiều, kéo dài dai dẳng mãi đến giữa thập kỷ 1980. Cả hai bên đã đụng độ trên biển năm 1988, khi Trung Quốc lần đầu tiên chiếm đảo của Việt Nam ở Trường Sa. Sự kiện này vẫn là vết thương rỉ máu trong lòng Hà Nội.

Trung Quốc đã chiếm hoàn toàn một quần đảo khác trên Biển Đông, quần đảo Hoàng Sa, sau một cuộc đối đầu với hải quân Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1974. Hà Nội vẫn phản đối hành động này của Trung Quốc.

Gần đây hơn, khi Trung Quốc đưa một giàn khoan dầu vào vùng biển tranh chấp trong 10 tuần khoảng giữa năm ngoái, bạo động chống Trung Quốc đã xảy ra ở nhiều nơi tại Việt Nam.

Giàn khoan được đưa đến khu vực cách thềm lục địa Việt Nam 80 hải lý. Sự việc này đã thay đổi thế trận, các quan chức Việt Nam nói riêng với Reuters, củng cố thêm nghi ngờ về Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong giới lãnh đạo quân đội và chính trị Hà Nội.

Việt Nam điều hàng chục tàu dân sự ra đối đầu với 70 tàu chiến và tàu tuần dương Trung Quốc để bảo vệ giàn khoan vào khoảng giữa năm 2014.

Một sỹ quan hải quân Mỹ đã về hưu nói: “Đó là lời nhắc nhở cho tất cả chúng ta Biển Đông có thể trở nên nguy hiểm đến mức nào.”

Về phần mình, các chiến lược gia quân sự Trung Quốc nhiều lần bực tức trước các nhà giàn mà Hà Nội tăng cường trong vùng biển Trường Sa sau khi mất Hoàng Sa năm 1974. Trung Quốc đang xây dựng ba đường băng trên các đảo nhân tạo ở Trường Sa, trong đó có khu vực chiếm từ Việt Nam năm 1988.

Bộ Quốc phòng Trung Quốc gửi đến Reuters một thông cáo cho biết quân đội hai nước có quan hệ thân thiện, gần gũi và Trung Quốc sẵn sàng cùng với Việt Nam xây dựng hòa bình trong khu vực.

Thông cáo cho biết: “Cả hai bên đã trao đổi thẳng thắn về vấn đề Nam Hải [Biển Đông]… cả hai bên nên tìm kiếm một giải pháp cơ bản, bền vững mà cả hai bên đều có thể chấp nhận”.

Trong lịch sử, Trung Quốc từng khẳng định chủ quyền trên hầu hết khu vực Biển Đông, trên một bản đồ có đường chín đoạn, chồng lấn vào các khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền trong khu vực.

Khoảng 5 nghìn tỷ USD hàng hóa qua lại trong vùng biển này mỗi năm, trong đó có phần lớn lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc, Nhật và Hàn Quốc.

“Bất an tinh thần”

Việc Trung Quốc chú trọng bảo vệ căn cứ tàu ngầm trên đảo Hải Nam – một căn cứ dự định cho hạm đội tàu ngầm nguyên tử của nước này – có thể là một điểm bùng phát xung đột khác. Trung Quốc trang bị máy bay chiến đấu và rất nhiều tàu chiến hiện đại nhất đậu xung quanh khu vực đảo Hải Nam. Hạm đội Nam Hải đóng gần bờ biển phía Bắc của Việt Nam, gần khu vực nước sâu quan trọng để đi vào Biển Đông và các vùng biển phía dưới.

Image copyrightREUTERS
Image captionKhả năng của quân đội Việt Nam vẫn là một dấu hỏi với nhiều chuyên gia quân sự

Các tướng quân đội Việt Nam thừa nhận với khách nước ngoài là họ biết giới hạn của mình. Hai thập niên ngân sách quốc phòng tăng hai chữ số đã giúp Trung Quốc có một lực lượng hải quân, không quân và quân đội mạnh mẽ và hùng mạnh hơn nhiều.

Các phái viên quân sự nước ngoài nói họ vẫn chưa nắm được khả năng thực sự cũng như khả năng sử dụng vũ khí mới phức tạp của quân đội Việt Nam. Họ gần như không được ra ngoài các phòng họp ở Hà Nội.

Các chiến lược gia quân sự Việt Nam nói đang tạo ra “Khả năng phòng thủ chủ động tối ưu” – khiến chi phí của bất cứ động thái nào của Trung Quốc chống lại Việt Nam sẽ tăng vọt, cho dù có xảy ra đối đầu trên biển hay tấn công trên bộ dọc theo đường biên giới 1.400km giữa hai nước.

Image copyrightREUTERS
Image captionViệt Nam thường nhắc đến cụm từ “Sẵn sàng chiến đấu cao độ” trong thời gian gần đây

Ông Carl Thayer nói nếu xung đột xảy ra, Hà Nội có thể nhắm vào các tàu container thương mại và tàu chở dầu có gắn cờ Trung Quốc trên Biển Đông. Ông nói thông tin này được các chiến lược gia Việt Nam cho biết.

Mục tiêu không phải là đánh thắng lực lượng hùng mạnh của Trung Quốc mà là “gây ra những tổn thất thực sự và bất an tinh thần, khiến tỷ giá lãi suất của bảo hiểm Lloyd tăng phi mã và khiến các nhà đầu tư nước ngoài hoảng loạn” – Ông Carl Thayer trình bày trong một thuyết trình tại hội nghị ở Singapore tháng trước.

Bộ Ngoại Giao Việt Nam không bình luận gì về bài báo này.

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Mối quan hệ chua cay giữa Putin và Hillary Clinton

Mối quan hệ chua cay giữa Putin và Hillary Clinton

Lập trường cứng rắn của bà Clinton với ông Putin trong quãng thời gian bà làm ngoại trưởng có thể là yếu tố khiến Nga không mong bà trở thành tổng thống Mỹ.

moi-quan-he-chua-cay-giua-putin-va-hillary-clinton

Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton gặp Tổng thống Nga Putin tháng 9/2012. Ảnh: AFP

Các tin tặc đã công bố khoảng 20.000 email bị đánh cắp từ máy chủ của Uỷ ban Quốc gia đảng Dân chủ (DNC). Chúng cho thấy các quan chức DNC, nhẽ ra phải duy trì quan điểm trung lập, lại ưu ái bà Clinton hơn so với đối thủ trong đảng là Bernie Sanders.

Một số nhà nghiên cứu bảo mật cho rằng vụ việc có liên quan đến chính phủ Nga, nhưng điện Kremlin đã bác bỏ cáo buộc này.

Nhân những lùm xùm quanh vụ việc này, các quan chức và chuyên gia Mỹ đã hướng sự chú ý đến mối quan hệ đối địch giữa bà Hillary Clinton và Tổng thống Nga Putin.

Gốc rễ căng thẳng

Theo Time, năm 2009, ngay sau khi Tổng thống Obama nhậm chức, bà Hillary, với tư cách là ngoại trưởng mới được bổ nhiệm, đã khởi xướng điều Nhà Trắng gọi là “tái thiết lập” quan hệ với Nga. Vào thời điểm đó, ông Putin đã định vị mình như một đối thủ của Mỹ, hoặc ít nhất là đối trọng với ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới.

Ông Putin khi đó đang giữ chức thủ tướng, còn ông Medvedev giữ chức tổng thống. Khác với ông Putin, Tổng thống Medvedev đã thể hiện mình là người thiên về phương Tây và có hứng thú đặc biệt với các tiện ích công nghệ cao của Mỹ.

Điều này đem lại cơ hội cho Washington và trong năm nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của ông Obama, Mỹ đã cố gắng xây dựng mối quan hệ tốt hơn với Nga thông qua ông Medvedev. Là ngoại trưởng, bà Clinton đã giám sát những nỗ lực này. Tổng thống hai bên đã đến thăm lẫn nhau, ông Obama đến Nga năm 2009, và ông Medvedev đến Mỹ năm 2010, thiết lập một loạt các thỏa thuận hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực, từ chống khủng bố đến kinh tế công nghệ cao.

Tuy nhiên, đối với những người giữ lập trường cứng rắn với phương Tây ở Điện Kremlin, nỗ lực của bà Clinton để kết bạn với ông Medvedev được coi là nhằm làm xói mòn vai trò của ông Putin như một đối trọng với sự thống trị của Mỹ trong vấn đề thế giới.

Mùa xuân năm 2011, Mỹ và các đồng minh bắt đầu thúc đẩy để mở đường cho can thiệp quân sự ở Libya, nhằm lật đổ chính quyền ông Muammar Ghaddafi. Nhưng nếu không được Nga chấp thuận, phương Tây không thể đạt được nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc để có cơ sở pháp lý cho sự can thiệp. Vì vậy, bà Clinton và ông Obama đã gây sức ép với ông Medvedev, và cuối cùng ông đã đồng ý không phủ quyết nghị quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.

Theo Time, ông Putin rất tức giận trước quyết định này. Ông cho rằng nghị quyết giống “lời kêu gọi thời Trung cổ cho một cuộc thập tự chinh Thiên chúa giáo”.

Một số cựu quan chức chính quyền Obama nói rằng khi bà Clinton là ngoại trưởng, bà là quan chức Mỹ tích cực và thẳng thắn nhất trong việc chống lại nỗ lực củng cố quyền lực trong nước và mở rộng ảnh hưởng trong và ngoài khu vực của ông Putin. Bà giữ lập trường đối nghịch với ông Putin trong một loạt vấn đề, bao gồm sự hỗ trợ của Nga với Iran và Syria. Bà Clinton còn từng phát biểu rằng ông Putin cố gắng tái tạo Liên Xô.

“Họ rất tức giận vì điều đó”, NBC dẫn lời Michael McFaul, đại sứ Mỹ tại Nga năm 2012 – 2014, nhớ lại các cuộc họp với các quan chức Nga cấp cao. “Tôi là đại sứ vào thời điểm đó, họ vô cùng giận dữ vì bà ấy”.

Khi rời khỏi chính phủ, bà Clinton thậm chí còn trở nên gay gắt hơn, đến mức so sánh ông Putin với trùm phát xít Đức Hitler năm 2014, sau khi Nga sáp nhập bán đảo Crimea. Những nhận xét này không chỉ làm mất lòng ông Putin mà còn cả công chúng Nga.

“Bà ấy luôn là tiếng nói cứng rắn trong chính quyền của chúng tôi với Nga. Các đồng nghiệp của tôi tại Nhà Trắng cũng phải đồng ý như vậy”, ông McFaul nói thêm.

Kỳ cựu hay lính mới

Theo Washington Post, các nhà phân tích thân Điện Kremlin chỉ ra rằng khi ông Bill Clinton là tổng thống Mỹ, ông đã cố gắng hướng Nga đến các chính sách chính trị, pháp lý và kinh tế mới nhưng đa phần đều thất bại. Họ lo ngại rằng bà Hillary sẽ cố gắng làm giống như chồng mình. Khi được hỏi về bà Clinton hồi tháng 4, ông Putin trả lời bằng một câu nói phổ biến ở Nga, ám chỉ vợ chồng thường giống nhau.

Trong vài tháng qua, truyền thông Nga liên tục viết rằng ông Donald Trump sẽ là tổng thống Mỹ có lợi với Nga hơn bà Clinton, do cách tiếp cận của ông với Đông Âu và mong muốn làm đảo lộn hệ thống chính trị Mỹ.

Tuy nhiên, Igor Ivanov, cựu ngoại trưởng Nga lại giữ quan điểm thận trọng. Hiện là chủ tịch Hội đồng Quan hệ Quốc tế Nga, ông viết hồi đầu tháng này rằng: “Thường dễ đạt được một thỏa thuận với các chuyên gia giàu kinh nghiệm, ngay cả khi họ là những nhà đàm phán không linh hoạt và đối tác khó khăn. Họ tự nhận thức được hạn chế của họ và chúng ta dễ đoán được hành động của họ hơn”.

“Chúng ta thường khó làm việc với các ‘lính mới’ trong chính trị quốc tế, vì sự thiếu kinh nghiệm thường biến thành hành vi thiếu lý trí và khó đoán trước, dẫn đến những quyết định thiên về mặt chủ quan, cảm xúc. Một khi đã có những quyết định sai lầm thì rất khó khắc phục”, ông viết.

Xem thêm: Donald Trump giải thích việc kêu gọi tin tặc Nga tấn công hòm thư Hillary Clinton

Cuộc kết hôn của hai cỗ máy chính trị Obama – Clinton

Phương Vũ

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Forbes: Trung Quốc bắt đầu phản ứng giống Triều Tiên

Forbes: Trung Quốc bắt đầu phản ứng giống Triều Tiên

Hữu Văn | 29/07/2016 07:10

Forbes: Trung Quốc bắt đầu phản ứng giống Triều Tiên

Quân đội Trung Quốc trong cuộc duyệt binh quy mô lớn ở Bắc Kinh tháng 9/2015. (Ảnh: Reuters)

Tạp chí Forbes (Mỹ) cho rằng Bắc Kinh đang có giọng điệu cứng rắn giống như Kênh truyền trình trung ương Triều Tiên (KCNA) khi nói đến cách thức giải quyết tranh chấp ở biển Đông.

Trung Quốc từ cứng rắn “ở mức độ bình thường”

Đây là một thông tin xấu cho các nhà đầu tư. Một cuộc đối đầu quân sự sẽ làm phương hại đến sự hội nhập, tăng trưởng kinh tế của khu vực và làm tổn hại đến nền kinh tế toàn cầu – đặc biệt là Trung Quốc, quốc gia vẫn chưa định hình được một nền kinh tế định hướng trong nước.

Các tranh chấp ở biển Đông bắt đầu từ mâu thuẫn khu vực giữa Trung Quốc và một số nước láng giềng, nhưng căng thẳng nhanh chóng mở rộng phạm vi thành một cuộc chiến kinh tế và sức mạnh quân sự mới giữa Trung Quốc và Mỹ.

Hai năm trước, Trung Quốc đã củng cố (cái gọi là) “chủ quyền ở biển Đông” bằng hành động tăng tốc xây dựng phi pháp đảo nhân tạo trên các đảo, đá thuộc quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.

Trước động thái bành trướng của Bắc Kinh, Mỹ tăng cường sự hiện diện của hải quân của mình quanh các đảo nhân tạo trái phép và nâng cấp khả năng tên lửa phòng thủ của mình ở Hàn Quốc.

Ban đầu, Trung Quốc phản ứng giới hạn ở một vài chỉ trích gay gắt rằng Mỹ “vi phạm luật pháp quốc tế” và cố gắng thuyết phục các đồng minh ngoại giao bằng sáng kiến Ngân hàng đầu tư cơ cở hạ tầng châu Á (AIIB) do nước này khởi xướng

Sau đó, Trung Quốc tiếp tục gây căng thẳng và củng cố yêu sách chủ quyền phi lý bằng thông báo sẽ triển khai các tàu ngầm hạt nhân đến khu vực biển Đông để “ngăn cản” sự hiện diện của Mỹ.

Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc nói, “các tên lửa hạt nhân chiến lược là nền tảng cho một sự răn đe quân sự”.

Cũng theo tờ này, “Trung Quốc đã áp dụng một chiến lược ‘răn đe hạt nhân hiệu quả’ với ít đầu đạn hơn các cương quốc phương Tây. Mặt khác, Trung Quốc là nước duy nhất trong các cường quốc hạt nhân thông báo không ưu tiên tấn công trước. Điều đó nghĩa là chiến lược răn đe hạt nhân của Trung Quốc là nhằm duy trì khả năng đáp trả.”

Hoàn Cầu khẳng định: “Chiến lược răn đe hạt nhân của Bắc Kinh phải thực tế và có hiệu quả, đủ để gây ảnh hưởng quan trọng đến chính sách đối với Trung Quốc của chính phủ Mỹ.

Cũng giống như khi bất cứ nước nào đánh giá về sức mạnh của Mỹ, ngay lập tức sẽ nghĩ đến các tàu sân bay và không mạo hiểm khơi mào đối đầu quân sự với Washington”.

Forbes: Trung Quốc bắt đầu phản ứng giống Triều Tiên - Ảnh 1.

Tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc tại căn cứ Du Lâm trên đảo Hải Nam. (Ảnh: SCMP)

… Đến thái độ đe dọa hiếu chiến

Trong diễn biến mới nhất, Tòa trọng tài thường trực (PCA) ở The Hague, Hà Lan hôm 12/7 đã ra phán quyết cuối cùng đối với vụ kiện biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc.

Theo Forbes, phán quyết của PCA có nghĩa là Trung Quốc không thể ban hành một cách hợp pháp các quy định hàng hải riêng của mình ở biển Đông hoặc kiểm soát thương mại đi qua khu vực này, một trong tuyến đường hàng hải nhộn nhịp nhất của thế giới.

Xã hội quốc tế hy vọng rằng Trung Quốc, thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc sẽ tôn trọng và tuân thủ phán quyết, thay vì lên giọng tuyên bố phán quyết là không có giá trị và tính ràng buộc pháp lý, hoặc khẳng định tiếp tục xây dựng trái phép các đảo nhân tạo.

Hay tồi tệ hơn, các quan chức và tướng lĩnh cấp cao Trung Quốc mới đây cảnh báo rằng tuần tra hàng hải của hải quân nước ngoài có thể kết thúc “trong thảm kịch”, theo Reuters.

Trong bài viết đăng trên Forbes hôm 26/7, giáo sư Panos Mourdoukoutas của trường Đại học LIU Post tại New York, Mỹ bình luận về tuyên bố trên:

“Tôi đã đọc đúng chứ (về tuyên bố của Trung Quốc)?

Nếu vậy, nó có vẻ giống như lời thách thức của Triều Tiên khi bác bỏ các lệnh trừng phạt của Liên hợp quốc về chương trình hạt nhân của mình và lặp đi lặp lại các cáo buộc và đe dọa chống lại các nước láng giềng và Mỹ.”

Các tuyên bố không nhân nhượng của Bình Nhưỡng là một phần nguyên nhân làm leo thang tình hình căng thẳng ở bán đảo Triều Tiên, cũng như thế bế tắc của nỗ lực giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo.

“Đây có thực sự là điều Trung Quốc muốn?” – ông Mourdoukoutas đặt câu hỏi.

Từ sau phán quyết của PCA, các tướng lĩnh và giới học giả Trung Quốc cũng phát ngôn “mạnh miệng” hơn trên truyền thông đại chúng.

Thiếu tướng, giáo sư Đại học Quốc phòng Trung Quốc Kiều Lương đe dọa:

“Hai tàu sân bay của Mỹ (USS John C. Stennis và USS Ronald Reagan) sẽ không gặp vấn đề gì nếu chỉ lưu thông hàng hải trên biển Đông nhưng nếu chiến tranh xảy ra, hai tàu này sẽ không có đường về.”

Trong khi đó, Thiếu tướng, Phó chủ nhiệm Ủy ban an ninh chính sách quốc gia thuộc Viện nghiên cứu khoa học chính sách Trung Quốc, Bành Quang Khiêm cảnh cáo Mỹ:

“Nếu [Mỹ] dám động đến Trung Quốc, chúng tôi sẽ xử lý từng chiếc từng chiếc, một chiếc cũng không tha. Chúng tôi có sức mạnh này.”

theo Thế giới trẻ

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Tiêm kích MiG xuất hiện, phòng không Nhật Bản bị sỉ nhục

Tiêm kích MiG xuất hiện, phòng không Nhật Bản bị sỉ nhục

Đại tá Trần Danh Bảng | 31/07/2016 07:30

Tiêm kích MiG xuất hiện, phòng không Nhật Bản bị sỉ nhục

Vượt qua mọi sự truy cản của phòng không Nhật bản, dù đã giảm tốc, nhưng chiếc tiêm kích MiG vẫn trượt ra đầu đường băng, dũi nát khoảng 300 mét đất.

Sau thắng lợi vang dội từ máy bay tiêm kích MiG-21 của Liên Xô tại chiến trường Trung Đông và Việt Nam, thông qua tình báo Israel, Mỹ đã đánh cắp được 1 “con” MiG-21.

Lúc này, người Mỹ, người Nhật Bản và Phương Tây lại thèm “có trong tay”sơ đồ và công nghệ chế tạo dòng Mikoyan loại máy bay loại MiG-25 Foxbat. Bởi những “tính năng lừng danh” mà tình báo nhiều nước đồn đoán, hoặc bị rò rỉ từ Liên Xô.

Máy bay MiG-25R do viện thiết kế của các tổng công trình sư Mikoyan và Gurevich chế tạo cuối những năm 1960. Đây là chiếc máy bay bay nhanh thứ 2 thế giới sau chiếc máy bay trinh sát SR-71 của Mỹ (3.900 km/giờ, gấp 3,2 lần vận tốc âm thanh). Nhưng SR-71 của Mỹ chỉ là máy bay trinh sát.

Thật đáng nể, MiG-25 Foxbat ngay khi xuất hiện đã khiến các nước Phương Tây kinh ngạc về hiệu suất bay, với tốc độ kinh khủng của nó, đạt tới Mach 3,2 (3920km/h), gấp 3,2 lần vận tốc âm thanh, vượt khỏi tầm khống chế của các hệ thống phòng không của đối phương.

Đến nỗi, nó từng bay qua không phận Israel khoảng 20 lần, nhưng F-4E của không quân Israel luôn đuổi hụt. Người Do thái thực sự không có cách nào để ngăn chặn nổi MiG-25, ngay cả khi biết trước lịch bay, đường bay của Foxbat.

Chính sự xuất hiện của MiG-25 “tung tăng” trên bầu trời Israel đã góp phần cảnh cáo, “cắt” nguy cơ chiến tranh hạt nhân, khi nước này có trong tay 18 quả bom hạt nhân, họ đã manh nha ý định sử dụng nó.

Các phi công lão luyện Phương Tây và Mỹ còn “trợn ngược mắt” khi biết gia tốc cực đại mà máy bay MiG-25 chịu được là 11,5 G (112,8 m/s2), kéo dài trong suốt thời gian hỗn chiến bay thấp, mà khung máy bay hầu như không biến dạng. Chắc nó phải làm từ vật liệu cực bền.

Trong đánh chặn MiG-25 có ưu thế lớn vì mang theo 4 tên lửa không-đối-không R-40 đầu dò hồng ngoại và có thể điều khiển bằng radar, cự ly sát thương ngoài 80 km. Foxbats còn thiết kế cho nhiệm vụ trinh sát điện tử và chụp ảnh độ phân giải cao.

Một vài Foxbats đã được tối ưu hóa cho vai trò tấn công cao tốc…sau này, phi công thử nghiệm А. Fedorov đã bay MiG-25 lên tới độ cao 37.650 m so với mặt đất.

Liên Xô xác nhận đã sản xuất hơn 1.000 chiếc MiG-25 Foxbat trang bị cho không quân Xô Viết và vài nước bạn bè.

Năm 1973, Quan chức Air Force Mỹ là Robert Seamans gọi MiG-25 Foxbat “có lẽ là loại đánh chặn tốt nhất trên thế giới ngày nay.”

Mong được, ước thấy. Mỹ, Nhật Bản và Phương Tây đã có MiG-25 Foxbat trong tình thế bất ngờ. nhiều người từng biết vụ thượng uý phi công Liên Xô Belenko là kẻ đào tẩu đầu tiên, đã đưa máy bay MiG-25 tới Nhật Bản, ngày 6 tháng 9 năm 1976

Tiêm kích MiG xuất hiện, phòng không Nhật Bản bị sỉ nhục - Ảnh 1.

Chiếc MiG-25 đã lao ra khỏi đường băng tới 300m.

Bất ngờ bị sỉ nhục, Nhật nhận món quà bất ngờ

Lúc 13 giờ 11 phút hôm ấy, Belenko phi công trung đoàn bay số 513, lái chiếc máy bay tiêm kích MiG-25 Foxbat rời căn cứ không quân ở vùng Chuguyevka (Vùng Siberia, Nga), hướng về Nhật Bản.

Đúng 21 phút sau, hệ thống radar cảnh giới Nhật Bản kích hoạt toàn bộ 28 trạm. Sớm nhất, trạm radar tại vùng Okushiri phát hiện ra chiếc MiG 25 cách phía tây tỉnh Hokkaido 180km, nó đang bay ở độ cao 6.000 mét, tốc độ 805km/h

Lập tức, đài kiểm soát không lưu của Nhật Bản thông báo qua radio, bằng tiếng Nga và tiếng Anh hy vọng tốp bay lạ hiểu được yêu cầu của họ. Nhưng máy thu radio của MiG-25 đang đặt tần số liên lạc nội bộ, nên phi công Belenko không thể nghe được lời cảnh báo.

Lúc này y chỉ hy vọng có tốp F-4EJ Phantom nào đó xuất hiện để ép, và hộ tống y đến nơi an toàn. Chiếc MiG đã giảm tốc độ hơn, để không tỏ ra nguy hiểm với “chủ nhà”.

Tới 13 giờ 20 phút, hai chiếc Phantom từ căn cứ Chitose cất cánh, chiếm độ cao trên MiG-25. Belenko giảm máy bay chỉ còn 550 mét, “chui” ra khỏi đám mây rộng.

Điều này đặt chiếc MiG dưới ngưỡng phát hiện radar. Nên “tốp bay lạ” biến mất khỏi màn hình ở Okushiri, Oominato và Kamo.

Belenko đã hạ cánh tại sân bay dân sự ở Hakodate, dù đã tính toán giảm tốc, nhưng chiếc tiêm kích MiG-25 vẫn trượt ra đầu đường băng, dũi nát khoảng 300 mét đất. Đó là thời điểm 13 giờ 57 phút.

Trang warisboring.com bình luận, một mình phi công MiG-25 đã đánh bại hệ thống phòng không của Nhật Bản trong 46 phút. Đó là một sự sỉ nhục với lực lương cảnh giới, bảo vệ vùng trời nước này.

Sau này, Cục phòng vệ Nhật Bản đổ lỗi cho sự việc theo dõi và đánh chặn kém, cho thời tiết xấu, tín hiệu phản xạ yếu. Nhưng thừa nhận rằng thiết bị của họ không hiệu quả khi kiểm soát máy bay độ cao thấp.

Hơn nữa chiến đấu cơ đánh chặn Phantom không có radar nhìn xuống (shoot-down). Cần có radar look-down chuyên lọc nhiễu địa vật để phát hiện đánh chặn từ trên cao.

Cảnh sát đến 10 phút sau khi MiG-25 hạ cánh. Họ chặn mọi lối ra – vào sân bay, đặc biệt người từ ngoài tới. Sợ Liên Xô phản ứng, trung đoàn bộ binh số 28 đồn trú tại Hakodate gọi quân tiếp viện, chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến có thể.

Các đơn vị phía bắc của Lực lượng Phòng vệ không quân Hải quân cũng tăng cường cảnh giác, báo động căng thẳng xung quanh Hokkaido.

Nhiều phỏng đoán rằng Liên Xô đã gài chất nổ vào vài hệ thống nhạy cảm nhất của Foxbat. Tờ The Chicago Tribune sau này dẫn lời một quan chức quốc phòng đã mô tả, MiG-25 “vừa là quả bom anh đào và một thanh thuốc nổ”.

Nhưng đêm hôm đó, Nhật Bản không tìm thấy chất nổ trên MiG-25, cho dù đó là một đêm căng thẳng ở Tokyo và Hokkaido.

Về ngoại giao, ngay sau đó Liên Xô đã làm rõ với Tokyo rằng MiG-25 là tài sản của Liên Xô và họ muốn nó trở lại nguyên vẹn. Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã trả lời rằng Belenko là một tội phạm và rằng chiếc máy bay là bằng chứng trong một cuộc điều tra hình sự.

Ít ngày sau Tokyo trao Belenko cho đại sứ quán Mỹ, ngay lập tức phi công này được chở đến Hoa Kỳ.

Ngày 25 tháng 9, Quân đội Nhật xả MiG-25 thành từng miếng, nhờ Không quân Hoa Kỳ dùng máy bay vận tải C-5 Galaxy chở các bộ phận đến căn cứ không quân Hyakuri gần Tokyo. Sợ Liên Xô trả thù, hoặc cướp lại MiG-25, họ phải dùng chiến đấu cơ F-4H Phantom hộ tống.

Có tới 200 đoànchuyên gia, đủ các bộ môn khoa học hàng không của Nhật Bản tới kiểm tra, với sự “quan sát” mải mê của Mỹ, trong đó họ nghiên cứu “từng giẻ xương” của máy bay phản lực MiG-25

Tiêm kích MiG xuất hiện, phòng không Nhật Bản bị sỉ nhục - Ảnh 2.

Món quà từ trên trời rơi xuống đối với Nhật và Mỹ.

Mỹ, Nhật và Phương Tây “mổ sẻ” được gì?

Lại nói, Phòng Công nghệ nước ngoài của Không quân Hoa Kỳ lúc này đã có một cơ hội để thử nghiệm radar FOXFIRE mới của MiG-25. Trong suốt một tháng trời, họ đo, bổ ngang, bổ dọc động cơ máy bay MiG -25, được coi là rất khoẻ, có tên Tumansky R-15.

Người Mỹ hay người Nga đều hiểu, để bay nhanh, bay xa cần động cơ cực khoẻ và khung “xương” máy bay cứng, nhưng phải nhẹ, chịu nhiệt tốt… Do đó vật liệu hàng không là điều cần “phân chất”.

Tạp chí An ninh toàn cấu (globalsecurity.org/military) viết, Các chuyên gia Mỹ-Nhật “ngã ngửa người” hoá ra khả năng cơ động, phạm vi và khả năng cận chiến của MiG-25 cực kỳ hạn chế.

Thì ra người Nga lắp ráp nhiều bộ phận máy bay bằng tay, và có mối hàn bằng tay. Từ lâu tin rằng Foxbat có một khung thân titan, nên Hoa Kỳ đánh giá máy bay này nhẹ hơn 25 phần trăm so với kích thước định tính.

Nhưng không phải thế, Foxbat họ sử dụng hợp kim niken-thép cho phần lớn kết cấu thân. Nên bay tốc độ cao không bảo đảm kháng được nhiệt như khung titan. Vì thế trọng lượng không có vũ khí của MiG-25 lên tới 29 tấn, cơ động kém!

Ngay cả tốc độ khủng khiếp của nó có vấn đề, dù lực đẩy có sẵn, cho phép đạt tốc độ Mach 3.2. Tuy vậy giới hạn tốc độ để ngăn chặn sự phá hủy của động cơ, chỉ ấn định là Mach 2.8. Ngay cả Mach 2.8 cũng khó khăn đạt được nếu không kích hoạt cho tuabin vọt tốc.

Máy bay được trang bị hai động cơ phản lực đơn trục R-15B-300, bố trí ở phần sau thân. Nó tạo ra 11,200kgf lực đẩy với luồng đốt sau.

Như vậy, Liên Xô khi thiết kế MiG-21 đã phải hi sinh một số tính năng khác để đạt được vận tốc lớn, độ cao lớn, và vận tốc vọt cao lớn.

Nên MiG-25 thiếu khả năng cơ động khi đang bay ở trạng thái đánh chặn, quần lộn, máy bay rất khó điều khiển khi bay ở độ cao thấp, máy bay chỉ có tầm không chiến ngắn, nếu bay ở tốc độ siêu âm.

Thiết kế MiG-25, Liên Xô sử dụng phần lớn đèn điện tử chân không sợi đốt, thay vì dùng thiết bị đèn transistor, làm cho công suất của thiết bị tăng cao, lại chịu nhiệt tốt hơn, dễ bảo trì. Nhờ đó, một rada rất mạnh là Smerch-A của MiG-25 có, công suất khoảng 600 kW.

Với rada này thì gần như mọi biện pháp phòng thủ điện tử (EMC) đều trở nên vô dụng. Tuy vậy, MiG-25 cũng không có radar nhìn xuống / shoot-down. Điều này làm cho nó vô dụng, khi chống lại mục tiêu bay thấp hơn.

MiG-25P còn được trang bị thiết bị điện tử nhận dạng bạn-thù (IFF). Việc kiểm soát chuyến bay và thiết bị định vị, bao gồm la bàn vô tuyến ARK-10, đo độ cao vô tuyến RV-4 và hệ thống chuyển hướng hạ cánh Polyot-11.

Rõ ràng khả năng cơ động của Mig-25 đã bị phóng đại. Nhóm nghiên cứu Nhật Bản đã vạch ra nhiều nhận định sai lầm của cộng đồng tình báo của Mỹ về máy bay này. Kết quả kiểm tra làm người Mỹ cảm thấy thất vọng. Foxbat chỉ tỏ ra hiệu quả trong vai trò trinh sát hơn là đánh chặn.

Robert Farley, một cộng tác viên thường xuyên của tờ National Interest viết, những thiếu sót sẽ được tha thứ, nếu Foxbat đã từng được thực hiện vai trò đánh chặn tầm cao, nhưng trong thực tế hầu hết các phi vụ như thế ít xảy ra.

Sự đào tẩu của Belenko khiến những bí mật về hệ thống radar và tên lửa của MiG-25 đã bị Mỹ, Nhật và Phương Tây khám phá.

Mig-25 không phải là một máy bay chiến đấu có ưu thế trên không mà Liên Xô thiết kế để nó leo cao với tốc độ rất lớn. Có lẽ người ta chế tạo nó để đối chọi với máy bay trinh sát SR-71.

Nhưng, cũng theo nguồn dẫn, phi công Belenko khai, Mig-25 không thể đánh chặn SR-71 vì SR-71 bay quá cao và quá nhanh; Mig-25 vẫn không thể đuổi được nó và chặn nó. Các tên lửa thiếu tốc độ để vượt qua SR-71, hệ thống hướng dẫn bắn không thể điều chỉnh kịp với SR-71.

Sau 67 ngày, chiếc máy bay MiG-25 đã được trả lại Liên Xô dưới dạng linh kiện rời, như một cử chỉ “thiện chí”.

Nhờ cú sốc do Belenko mang lại, Tokyo vội đẩy nhanh việc mua radar nhìn xuống (look-down), dự án này từng “nghiền ngẫm” trong nhiều năm.

Ngay sau đó, những chiếc máy bay chỉ huy, báo động sớm E-2C Hawkeyes, đầu tiên đã được mua về năm 1979, đủ 13 chiếc về trong năm 1983. Nhật Bản từ đây đã có thể yên tâm tránh khỏi các mối đe dọa mới nhất từ máy bay siêu âm Tu-22M Backfire ném bom hạt nhân của Liên Xô.

Với Liên Xô, ngay sau đó, năm 1978, các nhà thiết kế đã nhanh chóng phát triển một phiên bản cải tiến mới, MiG-25PD (“Foxbat-E”), với một radar RP-25 Saphir look-down/shoot-down mới, hệ thống dò tìm và theo dõi bằng tia hồng ngoại (IRST).

MiG-25 được lắp động cơ mạnh hơn. Khoảng 370 chiếc MiG-25P đã được nâng cấp theo tiêu chuẩn mới và có tên gọi là MiG-25PDS. Việc chế tạo MiG-25 dừng lại năm 1984, nhường chỗ cho loại máy bay tiên tiến hơn là MiG-31.

Không ngừng hoàn thiện năng lực tác chiến tầm cao, bay xa, bay nhanh, phát hiện trước đối phương, bắn tên lửa từ xa… người Nga đã sắp có loại tiêm kích tốt hơn nữa là MiG-41, hiện thông tin về nó còn rất hạn chế.

Có điều chắc chắn rằng, nó sẽ bay nhanh hơn tên lửa với tốc độ có thể đạt đến Mach 4 (nhanh gấp 4 lần tốc tộ âm thanh, tương đương 4.900 km/h), nhằm chống lại mọi mối đe doạ trên không. Khi có radar tốt, tên lửa uy lực cao, thì đây mới chính là niềm tự hào của Không quân Nga trên bầu trời trải dài hơn 10 múi giờ của họ.

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Create a free website or blog at WordPress.com.