Daily Archives: July 20, 2016
Muốn biết có “duyên” với Phật không, hãy xem 10 điều sau đây
HỒ SƠ FORMOSA HÀ TĨNH (PHẦN 4): QUAN HỆ CHẶT CHẼ GIỮA HÃNG FORMOSA VÀ CHÍNH QUYỀN ĐÀI LOAN.
HỒ SƠ FORMOSA HÀ TĨNH (PHẦN 4): QUAN HỆ CHẶT CHẼ GIỮA HÃNG FORMOSA VÀ CHÍNH QUYỀN ĐÀI LOAN.
Posted by adminbasam on 20/07/2016
FB Trần Kiên
20-7-2016
Tiếp theo Phần 1 và Phần 2: Hồ sơ Formosa Hà Tĩnh vàPhần 3
Trong dự án nhà máy thép Formosa tại Vân Lâm, Đài Loan (FSP), cái bóng của quan hệ chính trị – doanh nghiệp đã bộc lộ quá trình làm chính sách. Vương Vĩnh Khánh nhà sáng lập hãng Formosa, một trong những người giàu nhất Đài Loan, coi dự án này là ước mơ của cá nhân mình. Là người đỡ đầu chính trị lâu nay cho tổng thống Trần Thủy Biển, Vương là nhân vật quan trọng trong cả lĩnh vực kinh doanh lẫn chính trị. Ví dụ sau là minh họa cho ảnh hưởng của Vương Vĩnh Khánh và hãng Formosa lên các chính trị gia.
Tháng 07 năm 2005, em trai Vương Vĩnh Khánh sắp đặt một cuộc họp với tổng thống Trần Thủy Biển, và đưa ra bảy điều kiện của dự án FSP cho tổng thống. Những điều kiện này đòi chính quyền thiết lập ưu đãi đặc biệt nhằm giảm mọi chi phí thực hiện dự án FSP.
1. Chế độ “mua sau khi thuê” với phần đất dự định đặt nhà máy.
2. Khí thải CO2 từ nhà máy thép FSP không bị giám sát theo tiêu chuẩn môi trường mới.
3. Rút ngắn quá trình đánh giá tác động môi trường.
4. Ưu đãi về thuế.
5. Tiền bồi thường (đất đai) do chính phủ đề ra, nếu được chấp thuận.
6. Nhận đất càng sớm càng tốt.
7. Chính phủ chịu trách nhiệm phát triển các thị trấn lân cận.
Trong những điều kiện trên, ba cái đầu tiên đe dọa nghiêm trọng tới quyền tự quyết của chính quyền. Thứ nhất, giá bán đất lý tưởng mà Bộ Kinh Tế đưa ra cho Formosa là 10 tỷ Đài Tệ (312.5 triệu USD). Tuy nhiên, Formosa lại đề xuất phương thức “mua sau khi thuê” và chỉ muốn mua đất với giá 7.7 tỷ Đài Tệ. Thật ra chính phủ Đài Loan đã tốn hết 6 tỷ Đài Tệ để giải phóng và chuẩn bị mặt bằng cho diện tích đất 114 ha. Nhưng diện tích đất mà Formosa định xây nhà máy thép là 255 ha, hơn gấp đôi. Có nghĩa là giá mua Formosa đưa ra còn thấp hơn chi phí chuẩn bị đất. Và nghĩa là, điều kiện này yêu cầu chính quyền bán đất công thấp hơn giá thực cho một hãng tư nhân.
Thứ hai, bởi giám đốc Chang của Cục Bảo Vệ Môi Trường Đài Loan (EPA) định áp dụng giới hạn xả thải khí CO2 vào báo cáo đánh giá tác động môi trường (EIA) dự án FSP, nên Vương Vĩnh Khánh đã trực tiếp yêu cầu loại bỏ chỉ số này ra khỏi EIA. Vương cho rằng, vì nhà máy thép FSP sẽ nằm sát nhà máy naphtha cracker số 6 (SNP, là nhà máy hóa dầu lớn nhất Đài Loan, do Formosa sở hữu) nên có thể bỏ qua tiêu chuẩn đánh giá tác động môi trường mới. Lập luận của hãng Formosa là, hãy coi FSP là dự án mở rộng của nhà máy hóa dầu SNP, và tiêu chuẩn EIA đầy đủ sẽ được áp dụng nếu Formosa nộp bản phân tích về những khác biệt khi thay đổi thiết kế nhà máy thép.
Cả hai yêu cầu nêu trên đều can dự tới thẩm quyền của chính phủ Đài Loan, bởi báo cáo đánh giá tác động môi trường gần như là cơ chế giám sát duy nhất trong các quyết sách kinh tế. Những yêu cầu bất hợp lý của Formosa cho thấy ý định của nó là thử tầm ảnh hưởng lên giới chính trị gia để kiếm lợi riêng. Hành động đòi thuê đất này là một phép thử cho tính tự quyết để duy trì thẩm quyền chính phủ.
Năm 2007, có một sự kiện khác cho thấy Formosa có khả năng dùng tới quan hệ chính trị quyền lực của nó gây ảnh hưởng lên cơ quan EPA ra sao. Tháng 03/2007 giới hoạt động môi trường cáo buộc nhà máy hóa dầu SNP của Formosa tại Vân Lâm đã thay đổi thiết kế về sử dụng nước trong quá trình vận hành. Chính xác là nhà máy Formosa SNP đã vi phạm cam kết trong bản đánh giá tác động môi trường năm 2005: lượng nước sử dụng tại SNP không được vượt quá 25.7 tấn/ngày và phải tuân theo tiêu chuẩn mới áp dụng từ 2007. Nhưng Formosa đã không thực hiện cam kết này. Hành động tùy tiện của Formosa rõ ràng đã phạm luật trong EIA, vì theo luật này thì trước khi thay đổi bất cứ thiết kế nào thì Formosa phải làm báo cáo nêu rõ khác biệt do thay đổi thiết kế nhưng hãng này đã không làm. Sau một số điều tra, Cục Bảo Vệ Môi Trường Đài Loan (EPA) đã phạt Formosa bảy triệu Đài Tệ (200 ngàn USD) do hành vi phạm luật.
Do đã gặp khó khăn do tính bất định của báo cáo đánh giá tác động môi trường với dự án FSP, Vương Vĩnh Khánh không hài lòng với quyết định của EPA. Để chống lại Cục Bảo Vệ Môi Trường EPA, Vương mời tổng thống Trần Thủy Biển tham quan nhà máy hóa dầu SNP nhằm giới thiệu hệ thống vận hành cao cấp của Formosa. Vương, một ông già 89 tuổi bệnh tật, luôn đi cùng tổng thống trong suốt buổi tham quan. Bằng hành động này, Vương muốn gửi tới các viên chức chính phủ thông điệp rõ ràng về ảnh hưởng chính trị của mình tới tổng thống.
Trong chuyến thăm nhà máy SNP, tổng thống Đài Loan Trần Thủy Biển ca ngợi quyết định của Vương giữ đồng vốn lại trong nước bằng cách đầu tư tại Đài Loan. Tổng thống sau đó nói công khai rằng dự án FSP cần vượt qua bản đánh giá tác động môi trường với một số điều kiện kỹ thuật cụ thể, vì chính phủ cần suy xét cả hai hướng, hướng kinh tế và hướng môi trường. Thêm nữa, sau cuộc gặp Vương Vĩnh Khánh, Trần Thủy Biển còn hối thúc chính phủ “quét sạch các rào cản đầu tư” và duy trì “sự cân bằng giữa kinh tế và bảo vệ môi trường”. Quan hệ chặt chẽ giữa tổng thống Trần và hãng Formosa tất yếu thách thức tính tự quyết của chính quyền.
Năm 2007, toàn bộ nội các được tái tổ chức. Giám đốc Chang của EPA bị buộc rời khỏi chức vụ một phần do ông không hài lòng với quan hệ chặt chẽ giữa tổng thống Trần Thủy Biển và hãng Formosa. Dù Chang là nhà hoạt động môi trường tiêu biểu, đã sát cánh với đảng Dân Tiến trong hàng thập niên, nhưng đảng này coi sự ra đi của Chang sẽ giúp chính phủ lấy lại ủng hộ từ giới doanh nghiệp, bởi giới này đã càu nhàu về các báo cáo đánh giá tác động môi trường suốt nhiệm kỳ của Chang. Vì vậy, cuộc gặp giữa tổng thống Trần Thủy Biển và Vương Vĩnh Khánh là bước đi sau cùng để đập tan chức giám đốc Cục Bảo Vệ Môi Trường của Chang.
Hệ quả là, Hành Chính Viện Đài Loan đã vô hiệu hóa hình phạt bảy triệu Đài Tệ với nhà máy hóa dầu SNP của Formosa vào tháng 07/2007 sau khi Chang rời cục EPA. Cục này thậm chí còn điều chỉnh lại tiêu chuẩn khí thải giúp cho nhà máy SNP không phạm luật lần nữa. Ông Hsieh phát ngôn viên của Hành Chính Viện thậm chí nói rằng chính phủ không nên áp dụng những phương pháp gay gắt với nhà máy SNP, như phạt nặng hay đình chỉ hoạt động. Khi xét những hành vi dễ dãi với Formosa này, cả ba đảng phái đối lập đều tin rằng chính tổng thống Trần Thủy Biển đã đưa ra quyết định này sau hậu trường. Quan hệ giữa các chính trị gia đảng Dân Tiến với giới doanh nghiệp đã được chứng minh là gây hại, làm yếu đi khả năng giám sát của chính phủ trong lĩnh vực công nghiệp. (còn tiếp).
Nhà, tháng 06/2016.
Người dịch: Trần Kiên.
Bình luận của người dịch:
1. Hãng Formosa có ảnh hưởng rất lớn lên chính quyền và hệ thống chính trị tại Đài Loan. Bài này là một ví dụ cho thấy Formosa đã dùng ảnh hưởng đó để điều khiển giới chính trị Đài Loan theo hướng có lợi cho nó. Vậy ta không ngạc nhiên nếu Formosa đã làm chuyện tương tự tại Việt Nam, nghĩa là dùng một số quan chức theo hướng có lợi cho nó. Thảm họa môi trường biển, và hiện nay là thêm ô nhiễm đất, miền Trung là bằng chứng rõ ràng nhất.
2. Tại thời điểm 2005, chính quyền Đài Loan muốn bán 114 ha đất cho Formosa làm nhà máy thép FSP với giá 312.5 triệu USD, nghĩa là bình quân 2.74 triệu USD cho một hectare đất. Năm 2008? chính quyền Hà Tĩnh đã cho Formosa thuê khoảng 2000 ha đất trong 70 năm với giá 96 tỷ VND tương đương chừng 4.8 triệu USD, nghĩa là khoảng 2400 USD cho một hectare đất.
Như vậy, giá đất cho Formosa tại Hà Tĩnh rẻ hơn tại Đài Loan 1142 lần!! (MỘT NGÀN MỘT TRĂM BỐN MƯƠI HAI LẦN!!)
3. Hành động của Formosa tại Đài Loan và động thái tương ứng của chính quyền Đài Loan trước khi Formosa Hà Tĩnh nhận tội hủy diệt môi trường tại Việt Nam vào tháng 06/2016 thêm một gợi ý cho quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa bộ ba Formosa, công ty thép Đài Loan CSC, và chính quyền Đài Loan trong dự án đầy rẫy khuất tất là Formosa Hà Tĩnh.
Tướng TQ: “Nếu có chiến tranh, tàu sân bay Mỹ không còn đường về”
Tướng TQ: “Nếu có chiến tranh, tàu sân bay Mỹ không còn đường về”

Tướng Kiều Lương. (Ảnh: China.com.cn)
Đây là lời đe dọa của thiếu tướng, giáo sư Đại học Quốc phòng Trung Quốc Kiều Lương, được tờ Thời báo Hoàn Cầu đăng tải ngày 14/7.
Tướng Kiều Lương ngang ngược chỉ trích phán quyết của Tòa trọng tài thường trực (PCA) hôm 12/7 về vụ kiện giữa Philippines-Trung Quốc “vốn không có hiệu lực với Trung Quốc nhưng lại bôi nhọ Bắc Kinh”.
Theo ông này, vụ kiện biển Đông vừa qua là “mối đe dọa địa chính trị nghiêm trọng nhất mà Trung Quốc gặp phải kể từ khi cải cách mở cửa”.
Kiều tuyên bố, Trung Quốc cần phải có chuẩn bị và việc này sẽ chủ yếu được quyết định từ sức mạnh, chiến lược quân sự.
“Ví như với một nước có tiềm lực mạnh như Mỹ thì tất cả những động thái của nước này ở biển Đông đều chỉ là khoe mẽ, tuy muốn gây khó khăn cho Trung Quốc nhưng lại chưa dám lật mặt hoàn toàn”– Kiều Lương viết trong bài xã luận đăng trên Hoàn Cầu.
Hơn nữa, viên tướng này đánh giá hai tàu sân bay, USS John C. Stennis và USS Ronald Reagan, được Mỹ đưa đến biển Đông không vì mục đích gây hấn với Trung Quốc.
“Hai tàu sân bay của Mỹ sẽ không gặp vấn đề gì nếu chỉ lưu thông hàng hải trên biển Đông nhưng nếu chiến tranh xảy ra, hai tàu này sẽ không có đường về“, tướng diều hâu lên giọng đe dọa.
Kiều Lương lý giải, biển Đông quá nhỏ hẹp để biến thành “chiến trường”, nhưng nếu xảy ra chiến tranh, quốc gia chiếm ưu thế duy nhất chính là Trung Quốc bởi việc này xuất phát từ nhiều nhân tố khác nhau liên quan đến địa chính trị.
Theo Thế giới trẻ
Hậu Formosa, tân chính phủ và bóng dáng ‘tân đồng chí X’
Hậu Formosa, tân chính phủ và bóng dáng ‘tân đồng chí X’
Thiên Điểu
(VNTB) – Nếu lật ngược thời gian để thử tìm kiếm “tân đồng chí X”, thời điểm Formosa bắt đầu tìm đến Việt Nam thì vào giai đoạn 2008 tới năm 2013, người có vai trò chính trong việc quản lý ngành là ông Hoàng Trung Hải.
Chỉ trong nửa tháng, sau khi chính quyền Việt Nam buộc phải công bố Formosa là thủ phạm gây ra vụ thảm họa môi trường cho biển Việt Nam, hàng loạt bê bối liên quan công ty này tiếp tục bị phanh phui… Những thiệt hại ghê gớm đã và đang tiếp tục tàn phá môi trường biển, ảnh hưởng lên đời sống người dân mỗi ngày, trong khi “yếu tố Trung Quốc” của Formosa Hà Tĩnh bị hòa lẫn cùng yếu tố xâm lược bởi các hành động khiêu khích trắng trợn và thô bạo của chính quyền Trung Quốc đối với ngư dân Việt Nam ngày càng gia tăng với mật độ ngày càng nhiều hơn, mức độ nghiêm trọng cao hơn đã khiến người dân Việt Nam khắp nơi trên cả nước khó có thể chấp nhận ngồi yên.
Các cuộc xuống đường biểu thị sự bất mãn do việc Chính phủ cố ý bưng bít trước và sau khi công bố thông tin, cùng thông điệp yêu cầu đóng cửa nhà máy của Formosa về cơ bản vẫn chỉ giới hạn ở ý nghĩa bảo vệ môi trường, nhưng hiện nay đã vượt ra khá xa đối với ý nghĩa tác động xã hội. Khi mà kèm theo đó là các nguyên nhân thảm họa được chỉ ra có trách nhiệm liên đới rất lớn của quan chức chính quyền địa phương và cả Chính phủ. Việc trấn áp dã man của chính quyền đối với những người xuống đường biểu tình đòi truy tố Formosa cũng không còn thuần túy vì nỗi lo bất ổn an ninh.
Hãy thử bắt đầu bằng cách hệ thống các điểm chính xung quanh vụ Formosa để xem bản chất các hành động hiện nay là gì?
Những câu hỏi và trả lời xung quanh đại loại như Formosa là ai? Tiến trình xuất hiện tại Việt Nam thế nào? Đầu tư ra sao? Gây hại những gì? .v.v. không cần phải đưa ra thêm vì trên mạng đã quá nhiều và quá đủ. Trong phạm vi bài viết này chỉ xin tóm tắt mấy vấn đề: Formosa là doanh nghiệp Trung Quốc, đầu tư vào Việt Nam bằng một khu công nghiệp do chính Formosa lập qui hoạch và trực tiếp làm chủ đầu tư. Vấn đề cần xem xét là các uẩn khúc phía sau vụ đầu độc môi trường biển Việt Nam và các ảnh hưởng liên quan tới chính trị, xã hội Việt Nam hiện nay và nếu có thể là tương lai ra sao? Ai chịu trách nhiệm chính và đứng sau Formosa?
Tất cả các cấp chính quyền TW đều biết!
Hiện nay, có vẻ như dư luận truyền thông nhà nước đang tập trung vào việc chỉ ra mọi trách nhiệm pháp lý liên quan đến Formosa là lỗi của các cơ quan công quyền địa phương Hà Tĩnh. Từ quy trình lập dự án, cấp phép đến quản lý đều liên tục bị phanh phui các sai phạm mà quan chức địa phương cấp Tỉnh là thủ phạm.
Thế nhưng, sự thật có đúng như vậy hay không?
Bất cứ ai am hiểu chút ít về cấu trúc hoạt động quản lý nhà nước nói chung và Việt Nam nói riêng đều biết rằng: Chính quyền trung ương luôn quản lý và theo dõi chặt chẽ các ngành, các vùng kinh tế trọng điểm cả nước. Ở Việt Nam, các nhà thầu xây dựng khi muốn tham gia bất cứ một dự án nào thì việc đầu tiên phải nghĩ đến là “tiếp cận ai và ở đâu mới là mục tiêu cần tiếp cận để có thể thắng thầu”. Nghĩa là phải biết rõ cấp nào có ảnh hưởng đủ để tác động đến ngay cả công việc bình thường nhất là làm thuê cho dự án.
Trước khi Formosa vào Việt Nam, vùng cửa biển Vũng Áng và hàng ngàn hecta đất của khu công nghiệp (KCN) Vũng Áng hiện nay nằm trong nhóm qui hoạch “Vùng cảng biển thủy sản miền Trung” và “Vùng diện tích nông nghiệp” trong qui hoạch các vùng kinh tế cả nước và chiến lược an ninh lương thực tầm nhìn 2030 từ cách đây hơn chục năm về trước, khi mà cuộc “cách mạng các khu công nghiệp” bùng phát khắp nơi bắt đầu lộ ra những bất cập cũng như tác động ghê gớm tới cấu trúc sử dụng đất ở Việt Nam. Có nghĩa là không hề có qui hoạch KCN Vũng Áng – tức KCN Formosa ngày nay trong qui hoạch tầm nhìn 2030. Việc hình thành một KCN lớn, hoạt động kinh doanh lại là công nghiệp nặng là hoàn toàn do Formosa đề xuất bằng hồ sơ báo cáo như các dự án đầu tư ngoài quốc doanh thông thường. Dự án KCN Vũng Áng chỉ không bình thường khi tổng mức đầu tư ban đầu được đưa ra là hơn 10 tỷ dollar Mỹ, lọt vào top những dự án có qui mô vốn hàng đầu của cả nước. Sau đó nâng lên tới hơn 20 tỷ dollar Mỹ như hiện nay.
Một khu công nghiệp mới hoàn toàn, được điều chỉnh bổ sung vào bản đồ qui hoạch kinh tế tầm nhìn tới 2030 và với mức đầu tư hàng top trong các vùng kinh tế đương nhiên xuất hiện trên bản đồ các vùng kinh tế trọng điểm mà không chỉ Chính phủ mới có. Nói cách khác là cả Văn phòng Nhà nước, TW Đảng CSVN và Bộ chính trị cũng biết. Tất nhiên, Chính phủ mới là cơ quan quản lý trực tiếp chính thức ở cấp Trung ương. Mọi đề xuất liên quan dự án dạng này phải được cơ quan cấp Chính phủ xem xét và chấp thuận. Câu chuyện nói UBND Tỉnh Hà Tĩnh vượt quyền hay có những sai phạm trong quá trình cấp phép, quản lý đều chỉ là cái phần ngọn khi nó được chứng minh bằng các chữ ký, con dấu người thừa hành trên giấy tờ. Cứ điểm lại thông tin hàng loạt các quan chức và cả “tứ trụ triều đình” đều ghé thăm KCN Vũng Áng không chỉ một lần thì sẽ thấy điều này không có gì để nghi ngờ.
Nếu để ý một chút, xét về mặt trách nhiệm hành chính trong thủ tục cấp phép và các sai phạm đều xảy ra trong nhiệm kỳ trước, nhiệm kỳ mà Chính phủ dưới sự dẫn dắt của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc còn đương nhiệm gắn liền với tham nhũng – vấn nạn mà cả TW Đảng CSVN và Chính phủ mới do ông Nguyễn Xuân Phúc vừa lên đều có những thông điệp mạnh mẽ sẽ tấn công một cách triệt để.
Vậy tại sao bộ máy Chính phủ mới do ông Nguyễn Xuân Phúc mới lên thay lại có vẻ không muốn truy cứu sâu theo hướng này mà chỉ tập trung dồn vào chính quyền địa phương?
Cú đặt cược mạo hiểm
Điều rất rõ ràng: Nếu tập trung truy cứu trách nhiệm liên quan bộ máy Chính phủ nhiệm kỳ trước, sẽ không khó tìm ra các bằng chứng đi đêm mà Formosa đã thực hiện để có các thủ tục lẫn ưu đãi mà các doanh nghiệp khác nằm mơ cũng không thể có. Khi đó, ông Nguyễn Xuân Phúc không chỉ dễ dàng xây dựng được uy tín trước dân mà đồng thời có thể loại bỏ đáng kể những lãnh đạo thuộc phe cánh cũ mà chắc chắn ông không hề vui vẻ hay tin cậy trong bộ máy mới do ông đứng đầu.
Sẽ không có lý giải nào thuyết phục hơn ngoài mối nghi vấn có một liên quan nào đó đã khiến ngay cả Chính phủ đương nhiệm cũng có vấn đề trong việc làm rõ các trách nhiệm liên quan đối với Formosa. Tất cả các diễn biến trong thời gian gần ba tháng “điều tra” cho thấy chính quyền Hà Nội biết rất sớm Formosa là thủ phạm. Việc kéo dài thời gian công bố không ngoài mục đích là để tìm phương án xử lý sao cho có thể hạn chế thấp nhất các ảnh hưởng liên quan tới bộ máy nhân sự TW về mặt thủ tục vẫn chưa chính thức, nếu không nói là bất hợp pháp khi cuộc bầu cử được tiến hành ngược là “ê kíp cũ bầu cho lãnh đạo mới”. Giải pháp bất chấp mọi trình tự và nguyên tắc pháp lý khi chấp nhận cho Formosa bồi thường 500 triệu dollar Mỹ là một mức giá hết sức tượng trưng so với thiệt hại mà nó gây ra, cho thấy chính quyền Hà Nội chọn phương án che giấu những vấn đề uẩn khúc nào đó khả dĩ “đụng chạm” tới uy tín và hình ảnh của một vài nhân vật nào đó mà ngay cả TW Đảng cũng chưa đủ sức đụng vào, tương tự như câu chuyện “đồng chí X” trước đây. Nói cách khác, sau khi ông Dũng nghỉ thì nội bộ chính quyền TW vẫn còn và xuất hiện một “đồng chí X” mới, đặt ra thách thức khó khăn khiến Đảng CSVN và cả Chính phủ mới của ông Nguyễn Xuân Phúc đành phải mạo hiểm đặt cược uy tín trước dân khi xử lý Formosa.
Cú “đặt cược” này quá rõ vì trong khi với một bộ máy vừa lên được vài tháng. Dù ít nhiều còn lúng túng nhưng không thể có chuyện “vô tình” hay vì một lý do “nhân đạo” khi Chính phủ tự quyết định dàn xếp con số 500 triệu dollar Mỹ từ Formosa mà bất cứ ai cũng biết là hành động trái luật. Phản ứng của người dân, giới trí thức và rất nhiều các quan chức có chút ít lương tâm, những vụ kiện manh nha đang được chuẩn bị là bằng chứng rõ ràng rằng uy tín của Chính phủ do ông Nguyễn Xuân Phúc lãnh đạo sẽ bị tổn hại nghiêm trọng nếu không nói là mất trắng qua quyết định đầy tai hại này.
“Tân đồng chí X” là ai?
Nếu lật ngược thời gian để thử tìm kiếm “tân đồng chí X”, thời điểm Formosa bắt đầu tìm đến Việt Nam thì vào giai đoạn tháng 10/2008 đến tháng 02/2009, “Đồng chí X” giữ vai trò Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ TN&MT lúc đó là ông Phạm Khôi Nguyên. Còn đương kim Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường Trần Hồng Hà hiện nay lúc đó là Thứ trưởng của Bộ này chỉ 4 tháng rồi được điều về làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tháng 07/2010, ông được điều về lại vị trí Thứ trưởng Bộ TN&MT, lúc này Bộ trưởng là ông Nguyễn Minh Quang – một cán bộ Đảng thuần túy. Tới tháng 04/2016 thì ông Hà lên giữ chức Bộ trưởng TN&MT trong thành phần Chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc. Thời điểm ông mới lên Thứ trưởng lần 1 cũng là giai đoạn mà Formosa trình dự án và được cấp phép đầu tư. Việc ông được điều chuyển vào Bà Rịa – Vũng Tàu khó nói được có liên quan gì với nhau hay không, nhưng có nguồn tin nói rằng: Hồ sơ của Formosa đã tùng “bị làm khó” tại Bộ TN&MT ngay khi trình báo cáo Tiền khả thi. Nhưng khi ông Trần Hồng Hà từ Bà Rịa – Vũng Tàu quay về Hà Nội thì trong vòng không đầy một năm, hồ sơ Dự án khả thi của Formosa đã gần như hoàn tất. Như vậy, riêng vụ Formosa và các thủ tục liên quan môi trường gần như không có dấu ấn của ông ở giai đoạn cấp phép và đầu tư. Là cơ quan Bộ chịu trách nhiệm chính trong vụ Formosa xả thải, nhưng ông Trần Hồng Hà khá kín tiếng, rất ít phát biểu hay có câu trả lời nào rõ ràng. Vai trò, trách nhiệm quản lý trực tiếp liên quan giai đoạn cấp phép và đầu tư cho Formosa của Bộ TN&MT thuộc về hai cựu Bộ trưởng là ông Phạm Khôi Nguyên và ông Nguyễn Minh Quang.
Về phía Văn phòng Chính phủ, giai đoạn 2008 tới năm 2013, người có vai trò chính trong việc quản lý ngành là ông Hoàng Trung Hải. Khi Formosa bắt đầu trình Báo cáo tiền khả thi thì ông Hải đang là Bộ trưởng Bộ Công nghiệp (2002-2007), đương nhiên một dự án về ngành luyện kim phải qua cửa ông đầu tiên. Từ tháng 8/2013 đến nay, ông Hải là Phó thủ tướng phụ trách kinh tế ngành, vị trí được xem như quyền lực chỉ thua Thủ tướng và nắm giữ vai trò phụ trách chính của Chính phủ với hầu hết các ngành kinh tế quan trọng. Ông Hải cũng là người có nhiều phát ngôn ủng hộ Formosa nhiều nhất, mạnh mẽ nhất cho tới khi xảy ra vụ xả thải đầu độc môi trường biển Việt Nam. Về ông Hoàng Trung Hải, cũng phải nói thêm một chút là giai đoạn khi đang còn là Bộ trưởng Bộ Công nghiệp, chuẩn bị lên Phó thủ tướng thì cũng là giai đoạn ông bị tố cáo khai man lý lịch. Ban bí thư TW Đảng đã lập Tổ kiểm tra, xác minh ông Hải có gốc là người Hoa, không đúng như trong lý lịch tự khai. Nhưng sau đó mọi việc rơi vào im lặng và ông vẫn yên ổn ở vị trí Phó thủ tướng phụ trách kinh tế, UV TW Đảng. Tới tháng 2/2016 ông Hải được bầu vào Bộ chính trị, được Bộ chính trị phân công làm Bí thư Thành ủy Hà Nội.
Mặc dù từng là Phó thủ tướng phụ trách kinh tế ngành, là người quản lý và chỉ đạo liên tục với hầu hết các bước thủ tục cho dự án của Formosa trước đây, nhưng ông Hoàng Trung Hải hoàn toàn im lặng trong suốt thời gian xảy ra vụ Formosa. Phía truyền thông cũng có vẻ như vẫn bị một bức tường vô hình chặn đứng các thông tin nhạy cảm ở cấp Chính phủ và Bộ chính trị.
Vòng xoáy Formosa và viễn cảnh xã hội Việt Nam chính thức đi vào rối loạn vì bạo lực
Thực tâm mà nói, đã có lúc tôi có ý nghĩ về những điều “giá như” không bao giờ có trong chế độ Việt Nam hiện nay. Đó là giá như sau khi bất chấp cả Hiến pháp để đẻ ra đứa con trồi ngược mang tên “Bầu cử”, TW Đảng CSVN và Chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc có một giải pháp ứng xử khôn ngoan hơn, nhân văn hơn thì có thể đã không có người dân bị đánh đập dã man khi xuống đường phản đối Formosa. Giá như Đảng CSVN cương quyết và cứng rắn hơn với Trung Quốc như cứng rắn với người dân thì tiền của và sinh mạng ngư dân không phải trả giá đắt đến như thế, an nguy của đất nước không rơi vào tình cảnh đen tối tới mức như bây giờ. Giá như… giá như… (!). Khi tôi chia sẻ suy nghĩ này với vị cán bộ mới về hưu, ông bật cười và hỏi tôi: Sao chú không nói “giá như không có ĐCSVN luôn đi?”. Tôi cũng đành cười cho qua mà không biết trả lời ông thế nào.
Chỉ biết rằng: Nếu có bản lĩnh chính trị thật sự, chính quyền Việt Nam đã có rất nhiều lựa chọn trong vụ Formosa thay vì chọn cách vừa non nớt, vừa thô bạo nếu không nói là quay ngược lại với nhân dân, quay ngược lại với lợi ích đất nước và tự hại mình để người dân bức xúc đến như vậy.
Cuộc chiến đòi đóng cửa Formosa, đòi bồi thường thỏa đáng thiệt hại đã gây ra và đòi truy tố những quan chức lẫn đối tượng cả gián tiếp và trực tiếp gây ra thảm họa sẽ không còn điểm dừng cho tới khi mọi yêu cầu của người dân được thỏa mãn. Nó sẽ tạo ra vòng xoáy xói mòn mọi nỗ lực gây dựng uy tín lẫn quyền lực hiện có của chế độ.
Chỉ cần vài suy luận đơn giản về vụ Formosa, bất cứ ai cũng thấy ngay rằng: Tất cả mọi hệ lụy liên quan Formosa sẽ dồn về bộ máy nhà nước hiện cầm quyền lãnh chịu tất cả.
Nếu tính về kinh tế, khi ra tòa, Formosa chắc chắn phải bồi thường một giá trị lớn gấp rất nhiều lần con số 500 triệu dollar mà Chính phủ đã nhận nhằm mục đích cho qua vụ việc. Khi đó, với mức bồi thường lên tới vài chục tỷ dollar thì chắc chắn Formosa sẽ chọn con đường bỏ của chạy lấy người. Các khoản nợ đầu tư chưa thanh toán chưa ai biết với công trình mà Formosa để lại có đủ trả hay không chứ chưa nói đến tiền bồi thường. Trong khi một cuộc chiến pháp lý khác giữa Formosa liên quan thỏa thuận trị giá 500 triệu dollar sẽ khiến chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc khó bề yên ổn.
Nếu nói về chính trị: Với việc chính phủ Đài Loan chỉ ra một thông điệp chiếu lệ trong khi chính truyền thông Đài Loan công bố thông tin chứng minh Formosa là thủ phạm trước cả chính quyền Việt Nam gián tiếp thừa nhận Formosa Hưng Nghiệp tại Việt Nam là của Trung Quốc đại lục. Cùng với cách hành xử thiếu thận trọng mà chính quyền đã phạm phải qua các hành động trấn áp dã man không những không thể ngăn chặn người dân đeo đuổi cuộc đấu tranh đòi công lý phải minh bạch. Tiếp tục trấn áp bằng bạo lực ngày càng nặng như hiện nay, việc người dân chọn giải pháp dùng bạo lực đáp trả bạo lực sẽ diễn ra trong tương lai không xa. Một sự rối loạn tất yếu mọi mặt về an ninh, chính trị, xã hội là điều không thể tránh khỏi.
Với tình hình quan hệ Việt-Trung hiện nay, nếu xem vụ Formosa như một âm mưu phá hoại có chủ ý một cách thâm độc thì cái giá bỏ ra vài tỷ dollar của Formosa quá rẻ mạt để đổi lại một hệ lụy cho Việt Nam cả về kinh tế lẫn chính trị lớn đến như vậy.
“Giận mất khôn”, những ngộ nhận và bế tắc sẽ khiến chính quyền do Đảng CSVN lãnh đạo sẽ tiếp tục lún sâu vào sai lầm khi đứng trước hai luồng lốc xoáy là tranh chấp Biển Đông và hoạt động đòi hỏi một xã hội dân chủ đang ngày càng lớn mạnh và bức thiết hơn bao giờ hết.
T.Đ.
Phép thử trật tự châu Á cho tân Tổng thống Mỹ
Phép thử trật tự châu Á cho tân Tổng thống Mỹ
- Ngày đăng 20-07-2016
- Dân Trí
Phán quyết của PCA là cơ sở để Mỹ thực hiện trách nhiệm trong việc ngăn chặn các hoạt động hiếu chiến vẫn đang diễn ra của Trung Quốc.
Trung Quốc và Biển Đông sẽ là phép thử cho Tổng thống Mỹ kế nhiệm ông Obama.
Ngay trong ngày khai mạc Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hòa, Mỹ, Thời báo The Washington với số báo đưa tin về sự kiện đặc biệt trên đã cho đăng bài phân tích trách nhiệm của Trung Quốc trong việc tuân thủ phán quyết của Tòa trọng tài thường trực (PCA) ở La Hay vừa được công bố hôm 12/7 vừa qua, đồng thời nhấn mạnh việc Trung Quốc thách thức luật pháp quốc tế tại châu Á sẽ là phép thử cho Tổng thống Mỹ kế nhiệm ông Obama.
Theo bài báo, phán quyết mang tính bước ngoặt của PCA là cơ sở để Mỹ thực hiện trách nhiệm trong việc ngăn chặn các hoạt động hiếu chiến vẫn đang diễn ra của Trung Quốc. Vì Mỹ biết rằng Trung Quốc đã và đang thách thức trật tự quốc tế được Mỹ thiết lập từ hơn 70 năm qua và việc tái cam kết, tôn trọng quyền tự do đường thủy và đường không tại Biển Đông là điều vô cùng quan trọng.
Cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 tới sẽ tạo cơ hội cho ứng viên tổng thống Đảng Cộng hòa Donald Trump lấy lại niềm tin của các quốc gia trong khu vực vào Mỹ, nơi Mỹ đã thể hiện sự hiện diện về an ninh từ Thế chiến thứ 2.
Theo truyền thông Mỹ, Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hòa cùng với ứng viên đại diện không chỉ nên kêu gọi Trung Quốc tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế, mà còn nên đưa ra tuyên bố tăng cường các hoạt động của lực lượng hải quân Mỹ nhằm thực thi các “hoạt động tuần tra tự do” hàng hải và hàng không.
Cũng theo truyền thông Mỹ, điều quan trọng hơn đối với các lãnh đạo Quốc hội Mỹ đó là nên bỏ qua tư tưởng đảng phái chính trị để tập trung vào lợi ích quốc gia. Bước đi đầu tiên sau phán quyết Mỹ nên làm là ký tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS). UNCLOS được thông qua năm 1982 là cơ sở để quản lý các đại dương, 162 quốc gia trong đó có Trung Quốc đã tham gia ký kết. Tuy nhiên Mỹ vẫn chưa tham gia ký kết.
Việc tuyên bố tham gia UNCLOS sẽ giúp Mỹ có được sự tự tin và tín nhiệm trong lời nói. Đảng Cộng hòa cần đảm bảo thực thi các hiệp ước quân sự đã ký với các đối tác ở châu Á.
Nếu ký tham gia UNCLOS, Mỹ sẽ có cơ sở vững chắc hơn trong việc thực thi các hoạt động tuần tra tự do và không trái với các chương trình quan trọng do Mỹ khởi xướng như Sáng kiến an ninh phổ biến.
Việc ký UNCLOS cũng cho phép Mỹ có chỗ dựa pháp lý để kiện bất kỳ bên tuyên bố nào ra các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế, tránh được khả năng đối đầu với các lực lượng hải quân, tàu cá bán quân sự của Trung Quốc xung quanh các đảo tại Trường Sa có tranh chấp.
Hơn thế nữa, UNCLOS cũng tạo kênh hợp tác chính thức giữa Mỹ với các quốc gia khác, bởi hầu hết các quốc gia đồng minh, hàng xóm và bạn bè của Mỹ đều đã tham gia công ước.
Việc lãnh đạo Đảng Cộng hòa tái đặt trọng tâm vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ là thông điệp rõ ràng tới Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực về cam kết đối với nền dân chủ, sự tôn trọng luật pháp đồng thời làm giảm căng thẳng.
Trung Quốc sợ Trump hay Clinton?
Từ khi bắt đầu ra tranh cử tổng thống Mỹ, ứng viên Đảng Cộng hòa Donald Trump đã có những tuyên bố rất cứng rắn đối với Trung Quốc.
Theo ông Trump, để có thể dồn ép, buộc Trung Quốc phải trả giá cho những hành động phiêu lưu trên biển, Mỹ phải “tăng cường sức mạnh quân sự và triển khai sức mạnh đó một cách thích hợp đến Biển Đông và Hoa Đông”.
Ông Trump cho rằng những hành động này sẽ “ngăn cản chủ nghĩa phiêu lưu của Trung Quốc xâm phạm đến lợi ích của Mỹ ở châu Á”, nhấn mạnh rằng “sự hiện diện quân sự mạnh sẽ là dấu hiệu rõ ràng cho Trung Quốc và các nước châu Á cũng như toàn thế giới rằng Mỹ đã trở lại với vai trò lãnh đạo toàn cầu”.
Tuy nhiên, Tim Daiss, chuyên gia phân tích địa chính trị châu Á – Thái Bình Dương, nhận định rằng dù có những tuyên bố đao to búa lớn như vậy, giải pháp mà ông Trump đưa ra – nếu có thể gọi đó là giải pháp – sẽ không hề dễ dàng trong việc răn đe và ngăn chặn các hành động của Trung Quốc trên những vùng biển tranh chấp tại châu Á.
Trong khi đó, rất rành về chính sách đối ngoại, có kinh nghiệm đối phó với Bắc Kinh và lập trường cứng rắn về Biển Đông là những yếu tố khiến bà Hillary Clinton là cái gai trong mắt Trung Quốc.
Tại Diễn đàn ASEAN về vấn đề Biển Đông năm 2010, bà Clinton nhấn mạnh, Washington không tham gia vào vấn đề tranh chấp chủ quyền, nhưng khẳng định Mỹ có lợi ích tại Biển Đông gồm lợi ích quốc gia trong vấn đề tự do hàng hải, cách tiếp cận mở trước các vấn đề chung về hàng hải ở châu Á và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông.
Ngoại trưởng Mỹ khi đó nhấn mạnh, “đường 9 đoạn” nuốt gần trọn Biển Đông mà Trung Quốc vẽ ra là tuyên bố “bất hợp pháp”.
Khi nghe bà Clinton phát biểu, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì lúc bấy giờ nóng mặt và tỏ thái độ giận dữ tới mức vùng vằng rời diễn đàn. Ông này tỏ thái độ lỗ mãng khi nói rằng: “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác đều nhỏ. Đó là sự thật”.
Theo Diplomat, các nhận định của cựu ngoại trưởng Mỹ về Biển Đông đã tạo tiền đề để vấn đề này liên tục được đề cập tại mỗi cuộc họp ASEAN những năm qua. Trung Quốc từng nhiều lần lớn tiếng nói rằng Diễn đàn ASEAN không phải là nơi thích hợp để bàn về tranh chấp Biển Đông.
Lập trường cứng rắn của bà về Biển Đông khiến nhiều nhà phân tích Trung Quốc kết luận, Clinton chứ không phải ông Obama là “chủ mưu” sau “sự can thiệp” của Mỹ ở Biển Đông.
Trong bài viết về chính sách đối ngoại của Mỹ America’s Pacific Century (Tạm dịch: Thế kỷ Thái Bình Dương của nước Mỹ) năm 2011, bà Clinton vạch rõ phần khung của chiến lược tái cần bằng và thể hiện sự quan tâm đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Bắc Kinh cho rằng đây là một nước cờ khó ưa nhằm “kìm hãm” bước tiến Trung Quốc. Từ đó, Bắc Kinh đặc biệt lưu tâm tới nhân vật được coi là “kiến trúc sư” của chiến lược tái cân bằng.
. Cần trả lại chân lý khoa học cho Kết luận về nguyên nhân cá chết
9231. Cần trả lại chân lý khoa học cho Kết luận về nguyên nhân cá chết
Posted by adminbasam on 20/07/2016
TS. Nguyễn Đức Thắng, Hà Nội
20-7-2016

Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Huỳnh Đức Thơ (thứ 2, từ trái qua) và các lãnh đạo Đà Nẵng ăn hải sản nhiễm độc Ảnh: Trần Thường/ NLĐ.
Kết luận về nguyên nhân cá chết trong thảm hỏa môi trường lịch sử tại 4 tỉnh duyên hải miền Trung xẩy ra ngảy 6/4/2016, do nước thải của công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Formosa Hà Tĩnh) gây ra, đã được công bố chính thức vào ngày 30/6/2016, gồm những ý sau:
1. Do phenol (C6H5-OH), xianua (CN-) là những độc tố mạnh làm chết cá.
2. Do phenol, xianua được kết dính vào hydroxit sắt (Fe(OH)3 ) lắng đọng xuống đáy như một tấm chăn trôi đi xa, các “ổ độc” di động này hút nhả độc tố làm chết cá; phần lớn cá chết là cá sống ở tầng đáy.
3. Do một số mẫu cá chết có hàm lượng xianua từ 0,39 – 40mg/kg và phenol từ 5 – 340mg/kg.
I. Kết luận đã công bố dựa trên cảm tính, suy diễn chủ quan:
Kết luận đã công bố đối kháng với thực tế hiện trường khi sự cố xẩy ra, với một số qui luật tự nhiên, với khái niệm trụ cột của môn độc tố học (toxicology), với thông lệ thế giới giải thích nguyên nhân cá chết hàng loạt. Dưới đây là những phân tích về những ý chính của kết luận liên hệ với những đối kháng này.
1. Về phenol, xianua là những độc tố mạnh
Nguyên nhân làm cá chết cấp tính hàng loạt chia làm 2 loại cụ thể sau:
a) Bị tiếp xúc/phơi nhiễm với độc tố, đến đủ nồng độ gây chết LC50.
b) Bị chết do thiếu oxy.
Hai nguyên nhân này khác nhau cơ bản về bản chất hóa học và cơ chế gây chết. Kết luận đã công bố thuộc về nguyên nhân a), vì phenol và xianua được coi là những độc tố mạnh. Suy diễn này đã bỏ qua điều kiện bắt buộc cần có là nồng độ của phenol và xianua trong nước biển khi đó phải lớn hơn hoặc bằng LC50.
Trong độc tố học (toxicology) và sự cố môi trường (environmental accident) có khái niệm trụ cột là LC50 (Lethal Concentration), là nồng độ (mg/L) độc tố làm 50% quần thể cá chết sau một thời gian tiếp xúc nhất định. Có nghĩa là cá sống trong nước có chứa phenol, xianua sẽchết cấp tính khi nồng độ của chúng vượt quá giá trị LC50. Độc tố nào có giá trị LC50 càng thấp thì càng độc và ngược lại nếu LC50 càng cao thì càng ít độc, an toàn.
Trong nhân dân, có câu nói có tính qui luật là “Suy cho cùng một chất độc hay không độc còn tùy thuộc vào nồng độ của nó”. Ví dụ, muối hoặc dấm chua chúng ta ăn ít thì không sao, nhưng nếu ta dùng vượt liều gây tử vong sẽ nguy hiểm. Thuốc ngủ nếu ta uống 1 hoặc 2 viên không sao; nhưng ta uống 10 – 20 viên một lúc sẽ khó mà cứu chữa. Ngay cả thuốc bổ (nhâm sung, cao hổ v.v..) cũng sẽ trở thành độc hại nếu ta uống liên tục quá liều bác sĩ chỉ định.
Việc xác định LC50 là những thí nghiệm khoa học rất công phu, tốn kém. Ví dụ 1: F. Pablo và cộng sự (1) đã thực hiện nhiều thí nghiệm để xác định LC50 sau 96 giờ cho loài cá biển của Úc là bass Macquaria Novemaculeata, có chiều dài là 2cm (rất bé), tiếp xúc với các nồng độ khác nhaucủa xianua và phức của xianua với sắt cụ thể là NaCN, K3Fe(CN)6 và K4Fe(CN)6 . Các yếu tố khác còn lại của nước thí nghiệm phải duy trì tương đương với nước biển. Thí nghiệm với độ mặn là 32g/L, pH = 8, ToC = 23, oxy hòa tan bằng 80% mức bão hòa; với 16 giờ chiếu sáng và 8 giờ trong tối, cho ăn bằng các vụn tôm khô. Kết quả: 96-h LC50 đối với NaCN là 0,109mg/L, K3Fe(CN)6là 2,83mg/L và K4Fe(CN)6 là 285mg/L.
Ví dụ 2: F. D. de Moraes(2) và cộng sự đã xác định LC50 cùa phenol đối với 2 loài cá da trơn là Ictalurus punctatus và Piaractus mesopotamicus. Cụ thể đối với I. punctatus: 54 con làm thí nghiệm, có khối lượng trung bình là 16gam, dài 12cm, nhiệt độ nước 270C, pH=7, oxy hòa tan 6mg/L, suốt quá trình thí nghiệm không cho ăn; LC50 sau 96 giờ tiếp xúc với phenol là 15,08mg/L. Đối với loài P. mesopotamicus: 60 con làm thí nghiệm, có khối lượng trung bình là 22gam, dài 13,4cm, nhiệt độ nước 270C, pH=7, oxy hòa tan 5,2mg/L, suốt quá trình thí nghiệm không cho ăn; LC50 sau 96 giờ tiếp xúc với phenol là 32,5mg/L.
(3)Theo Viện Quản lý Xyanua Quốc tế (ICMI), cá và các loài động vật dưới nước đặc biệt nhạy cảm với xyanua. Nồng độ các chất xianua tự do trong môi trường nước khác nhau 5-7,2 mg/L sẽ làm giảm hiệu suất bơi và ức chế sinh sản ở nhiều loài cá. LC50 từ 20-76 mg/L, có thể khiến nhiều loài cá chết; nồng độ vượt quá 200mg/L gây độc với tất cả các loài cá.
Thực tế nồng độ phenol và xianua có trong tất cả các mẫu nước mà Đoàn điều tra thu thập và của cả 4 tỉnh miền Trung tự lấy đem phân tích, đều vô cùng nhỏ, vô cùng thấp, đều dưới 0,005mg/L rất an toàn cho tôm, cá (nhỏ 10.000 lần so 50mg/L – LC50 trung bình của xianua – và nhỏ 5.000 lần so với 25mg/L – LC50 trung bình của phenol). Nồng độ của phenol, xianua trong nước biển dưới 0,005mg/L thấp hơn 4 lần so với QCVN 08:2008/BTNMT về chất lượng nước mặt; đối với nước biển thì nồng độ tối đa được phép của phenol (tổng số) và xianua (CN-) đều là 0,02mg/L. Không có bất cứ QCVN nào có mục đích làm căn cứ để xác định nguyên nhân cá chết, cho dù nếu nồng độ của phenol, xianua có lớn hơn nhiều lần 0,02mg/L. Sai lầm phổ biến, từ Trung ương cho đến địa phương là cứ thấy mẫu nước phân tích có một chất nào đó lớn hơn 2 – 3 lần QCVN 08 thì kết luận luôn độc tố đó là nguyên nhân gây chết cá. Cụ thể Thừa Thiên – Huế lấy mẫu phân tích thấy phenol và xianua đều dưới 0,005mg/L, nhưng Crom và amoni cao hơn QCVN 08 nên đã loại trừ phenol và xianua và kết luận nguyên nhân là Crom và amoni. Căn cứ để xác định nguyên nhân cá chết phải là LC50. Chỉ số này trên toàn thế giới không pháp lý hóa dưới dạng các quy chuẩn; chỉ được các đơn vị nghiên cứu, các trường đại học, các vụ, viện công bố rải rác trên các tài liệu khoa học.
Kiểu suy diễn cảm tính “phenol và xianua đều rất độc, do vậy khi đổ vào biển cá chết là đương nhiên”, đã bỏ qua một điều kiện bắt buộc là nồng độ của phenol, xianua trong nước biển khi đó phải lớn hơn hoặc bằng LC50.
Đoàn điều tra đã lấy mẫu nước thu được từ vệt nước màu đỏ gạch ở Quảng Bình ngày 4/5, Hà Tĩnh ngày 5/5 và 12/5 làm thí nghiệm với cá, cho kết quả tỷ lệ cá chết 80-100% trong 3 – 30 phút. Phân tích mẫu nước, hàm lượng sắt trong cặn lơ lửng cao (gần 25%), hydroxit sắt (gần 50%) và chứa phenol. Từ đó suy ra cá chết vì phenol và xianua.
Nếu đúng như vậy, thì đây là một thí nghiệm chưa khoa học và chủ quan. Vì không đo nhiệt độ, không đo pH, không đo oxy hòa tan, không đo độ mặn, thí nghiệm với bao nhiêu con cá, cá nước mặn hay cá nước ngọt, cân nặng v.v.. . Cái quan trọng nhất là nồng độ của phenol bao nhiêu mg/L làm cho cá chết lại không công bố. Một thí nghiệm có chủ ý, không khách quan hoàn toàn có thể làm cho cá chết trong 3 – 30 phút. Ví dụ, lấy nhiều hạt keo màu đỏ, dùng hóa chất giải hấp phụ để giải phóng phenol, xianua; thí nghiệm được thực hiện trong chậu nhỏ, tạo nồng độ phenol cao hơn LC50 sẽ làm cá chết tức thì. Tuy nhiên, môi trường nước trong chậu hoặc bể này hoàn toàn xa lạ với môi trường nước biển, nơi mà cá đang sống bỗng qua một đêm chết hàng loạt.
Đoàn điều tra đã “bỏ quên” một qui luật rất cơ bản nữa của tự nhiên là nước biển và đại dương mênh mông vô tận nên nồng độ từng độc tố, kể cả đổ cả chục tấn vào sẽ bị pha loãng thành rất nhỏ. Cụ thể nước biển và đại dương gồm 96,66% là nước tinh khiết (H2O), xáo trộn đồng đều với 3,02% là muối ăn (NaCl), còn lại 0,32% cho tất tật mọi chất khác có thể (các hợp chất hữu cơ hòa tan độc và không độc, các kim loại nặng v.v.. )
2. Phenol, xianua được kết dính vào hydroxit sắt Fe(OH)3:
Kết quả thí nghiệm của F. Pablo và cộng sự(1) nêu ở trên cho thấy khi xianua tạo 2 phức khác nhau với sắt thì độc tố của nó đã giảm đi từ 26 đến 2600 lần! Có một nguyên tắc phổ quát là các độc tố khi ở dạng tự do có độc tính cao hơn khi bị tạo thành phức hoặc bị hấp phụ. Hydroxit sắt là chất không độc. Nếu tạo phức hay hấp phụ với phenol hoặc xianua thì càng làm giảm độc tính của phenol và xianua. Trong các bệnh viện, để cấp cứu, giải độc cho bệnh nhân nếu bị uống phải phenol, xyanua, hay thuốc trừ sâu v.v… các bác sĩ thường cho uống ngay bột than hoạt tính. Than hoạt tính sẽ hấp phụ các độc tố, qua đó vô hiệu hóa độc tính của chúng. Thực tế này trái ngược hẳn với kết luận đã công bố cho rằng chất keo hydroxit sắt với phenol hay xyanua là “ổ độc” di động hút nhả độc tố làm cá chết.
Nghị sĩ Kuen-yuh Wu(6) Đài Loan, chuyên gia về độc tố học, cho biết nhiều người đang kiện Formosa vì tỷ lệ ung thư gia tăng ở Vân Lâm Đài Loan. Trong một số buổi điều trần ông luôn kêu gọi Formosa phải giải trình vụ cá chết ở Việt Nam. Về “tấm chăn” khổng lồ di động hút nhả các độc tố làm cá chết, ông nói “Là chuyên gia về độc tố học, tôi chưa từng đọc thấy tài liệu nào nói trường hợp hút các chất độc kiểu này”.
3. Về hàm lượng cao của phenol và xianua trong cá:
Thậm chí không cần cơ sở lý luận của độc tố học nữa (toxicology, LC50), chỉ cần duy nhất một thực tế sau đây đã đủ hoàn toàn làm xụp đổ kết luận đã công bố về nguyên nhân cá chết. Đó chính là nhà máy sản xuất than cốc của Formosa Hà Tĩnh đã đi vào hoạt động từ tháng 12/2015 đã 4 tháng liên tục xả thải hàng ngày 10.000 – 12.000 m3 nước thải, trong đó có khoảng 1000m3 nước thải của khâu luyện than cốc, có chứa hàng tấn hóa chất độc hại khác nhau; trong đó có khoảng 700 – 800kg phenol và 40 – 60kg xianua vào môi trường, thế mà không một con cá nào chết!!
Hệ thống xử lý sinh hóa của công ty thời gian này có vấn đề(4) vì chưa được nạp vi khuẩn đặc chủng để xử lý phenol và xianua. Những đàn cá vẫn bơi lội tung tăng, vẫn “ăn, uống” phenol và xianua, kim loại nặng vào tích tụ trong cơ thể chúng.
Ngoài ra, theo qui luật của tự nhiên cá lớn ăn cá bé, cá bé ăn cá bé hơn, cá bé hơn các động vật phù dù, các động vật phù du này ăn mọi thứ độc hại có trong nước. Đây là chuỗi thức ăn, thông qua chuỗi này các độc tố dù có nồng độ rất nhỏ trong môi trường nước cũng sẽ bị “tích tụ và khuyếch đại đến hàng nghìn, hàng triệu lần trong cơ thể động vật bậc cao hơn”. Trên internet có rất nhiều hình ảnh minh họa về qui luật của tự nhiên này mà Đoàn điều tra “bỏ quên”. Đó là sự tích tụ và khuyếch đại các độc tố thông qua chuỗi thức ăn (biological accumulation and magnification of pollutants in food chain). Ví dụ: Thuốc bảo vệ thực vật DDT với nồng độ coi như không có trong nước, là 0,000003mg/L. Động vật phù du ăn DDT, lấy mẫu đem phân tích thấy hàm lượng DDT là 0,04mg/kg; mẫu cá bé cho hàm lượng 0,5mg/kg, mẫu cá lớn cho hàm lượng 2mg/kg (hệ số khuyếch đại là 0,66 triệu lần), mẫu chim ăn cá cho hàm lượng DDT 25mg/kg (hệ số khuyếch đại là 8,3 triệu lần!!).
Nếu lấy kết quả phân tích tất cả các mẫu nước biển 4 tỉnh miền Trung cho phenol và xianua đều dưới 0,005mg/l (4 lần thấp dưới QCVN 08:2008/BTNMT, 0,02mg/L), nhân với hệ số khuyếch đại 0,66×106 x 0,005 cho ta 3.300mg/kg (3,3g/kg) trong cá lớn!!! Thật kinh hoàng cho quá trình tích tụ và khuyếch đại độc tố này. Mang trong mình một hàm lượng lớn độc tố như vậy nhưng cá vẫn tung tăng bơi lội, vẫn sống để cho người dân đánh bắt và ăn.
Để minh họa các qui luật tự nhiên trên, dưới đây là bảng tổng hợp kết quả nghiên cứu công bố tháng 6/2014 của Bazzi(5), A. O. về các kim loại nặng trong nước biển, trong trầm tích và trong các con hầu (oysters S. cucullata) tại vịnh Chabahar, biển Oman.
Đoàn điều tra quốc gia đã lấy mẫu cá chết đem phân tích thấy có một số mẫu cho hàm lượng xianua từ 0,39 – 40mg/kg và phenol từ 5 – 340mg/kg, mặc dù có sự chênh lệch rất lớn về số liệu (gấp 100 lần cho trường hợp xianua, và 68 lần cho phenol), chứng tỏ độ tin cậy yếu, tính đại diện thấp, nhưng đã vội coi là chứng cứ, bằng chứng không thể chối cãi và kết luận cá chết là do độc tố phenol và xianua.
Lại tiếp tục một suy diễn cảm tính và chủ quan, bỏ qua qui luật của tự nhiên là tích tụ và khuyếch đại các độc tố trong chuỗi thức ăn.
QCVN 01:2009/BYT Về chất lượng nước ăn uống, qui định hàm lượng tối đa của 109 các “độc tố” được phép có trong nước ăn uống, ví dụ: Tổng chất rắn hòa tan TDS 1000mg/L, hàm lượng Nhôm 0,2mg/L, amoni 3mg/L, Bo 0,3mg/L,
Clorua 250mg/L, Crom tổng số 0,05mg/L, xianua 0,07mg/L, Niken 0,02mg/L, Nitrat 50mg/L, Sunphat 250mg/L, phenol 0,001mg/L, thuốc trừ sâu DDT 0,002mg/L v.v.. Cần nhớ QCVN này hoàn toàn không phải là căn cứ để suy diễn nguyên nhân cá chết nếu hàm lượng độc tố trong cá vượt vài trăm lần cho phép. Đây là sai lầm phổ biến của các cán bộ chuyên môn từ Trung ương đến địa phương. QCVN 01 với LC50 là hoàn toàn khác nhau, cả về bản chất và mục đích ban hành. Kiểu suy diễn “râu ông nọ cắm cằm bà kia” không thể trả lời được câu hỏi “tại sao hàng vạn con cá sống ở ngoài biển, nếu lấy mẫu phân tích cũng có hàm lượng độc tố ngang bằng với mẫu cá cùng loại chết trong cùng một vùng nước”, giải thích sao đây?
II. Thông lệ thế giới giải thích nguyên nhân cá chết:
Hầu hết các sự cố môi trường làm cá chết hàng loạt sau 1 đêm ngủ dậy thấy cá nổi trắng mặt nước. Thảm họa này phần lớn xẩy ra tại các vùng ven biển, hồ lớn.
Chính vì nồng độ độc tố ở các vùng nước rộng lớn sẽ là rất nhỏ nên các nhà khoa học trên thế giới không bao giờ giải thích nguyên nhân cá chết hàng loạt bằng các độc tố kiểu như phenol, xianua v.v… Họ đều thống nhất giải thích là do bị thiếu oxy hòa tan (mg/L), trong vùng nước mà cá đang sinh sống.
Ngay cả đối với cá chết hàng loạt nuôi trong ao, đầm, lồng bè cũng vậy, người dân miền Nam thường giải thích là do thiếu oxy trong nước; khác với chết vì dịch bệnh, rải rác kéo dài nếu như không kịp thời điều trị.
Diễn biến nồng độ oxy hòa tan trong nước tuân theo qui luật chu kỳ ngày đêm (diurnal cycle). Buổi sáng (từ 6 giờ), nồng độ của oxy từ rất thấp tăng dần qua trưa và sang chiều, trong khoảng 14 – 16 giờ thì đạt đỉnh (do các hoạt động quang hợp của các thực vật thủy sinh tạo ra), sau đó giảm dần, về tối và qua đêm, nồng độ oxy về thấp nhất trong khoảng 1 – 6 giờ sáng. Trường hợp nuôi cá mật độ cao, chỉ cần mất điện hay sự cố máy bơm xục khí bị hỏng, sáng dậy đã thấy cá chết nổi trắng lồng bè, ao đầm.
Đối với cá tự nhiên vùng ven biển, hồ lớn cũng vậy, chết hàng loạt vì thiếu oxy. Có những vùng nước ven bờ khi bị tiếp nhận quá nhiều chất thải hữu cơ, đặc biệt là nitơ và phốt pho (có thể là từ khu đô thị, hoặc hoạt động nông nghiệp thâm canh ven bờ, do lạm dụng quá nhiều phân hóa học khi bị rửa trôi xuống nước) sẽ tích tụ đến mức tạo nên hiện tượng phú dưỡng (eutrophication). Việc có quá nhiều những dưỡng chất (nutrients) này trong nước đã làm cho các loài tảo, rong, rêu sinh sôi và phát triển như bùng nổ (algal bloom, không phải là tảo nở hoa), lan rộng trên một diện tích lớn. Trường hợp có các loại tảo đỏ(dinoflagelates) bùng nổ thì được gọi là “thủy triều” đỏ (red tide). Như vậy thủy triều đỏ hoàn toàn không phải là siêu nhiên; thủy triều đỏ là do con người gây ra. Xanh và đỏ rồi chúng cũng chết đi, tạo nên những mảng sinh khối khổng lồ (biomass), lắng đọng xuống đáy, thối rữa và phân hủy bởi các con vi sinh. Quá trình phân hủy bằng vi sinh này tiêu thụ một lượng khổng lồ oxy vốn đã khan hiếm ở tầng đáy vào ban đêm. Sáng dậy, người dân sẽ thấy cá chết nổi trắng một vùng nước mênh mông.
Ở những vùng nước sâu còn có qui luật cột nước bị phân tầng (stratification) thành tầng bề mặt, tầng giữa và tầng đáy. Nước tầng bề mặt có nhiệt độ và oxy hòa tan cao hơn, tầng giữa có giá trị trung bình, tầng đáy nhiệt độ và nồng độ oxy là thấp nhất, sát đáy thì oxy hầu như không còn. Nhưng nồng độ các muối kim loại nặng là cao nhất, do vậy tỷ trọng của nước ở tầng đáy cũng là cao nhất, làm cho khả năng luân chuyển nước bề mặt xuống đáy và từ đáy lên bề mặt là rất hiếm. Khi nồng độ oxy dưới 2,5mg/L được gọi là vùng chết (dead zone).
III. Vận dụng thông lệ của thế giới, giải thích nguyên nhân cá chết hàng loạt tại 4 tỉnh ven biển miền Trung (kiến thức Hóa học 8, Toán 6):
Sự cố chỉ xẩy ra khi công ty Formosa Hà Tĩnh đã đổ vào biển gần 2500m3 nước thải của quá trình xúc rửa, tẩy gỉ các hệ thống đường ống kim loại. Công việc này chỉ thực hiện 1 lần. Sau mấy năm mới phải thực hiện lại, tùy thuộc vào mức độ tái cáu bẩn, đóng cặn ở trong lòng các đường ống. Công ty cho biết là đã sử dụng gần 245 tấn hóa chất, chủ yếu là axit clohydric (HCL) và xút (NaOH) cho việc xúc rửa, tẩy gỉ các hệ thống đường ống. Theo công ty, việc xử lý gần 2500m3 nước thải này không thành công là do lỗi của các nhà thầu phụ và lỗi ở mất điện 5 ngày. Đoàn điều tra biết quá rõ về điều này, nhưng đáng tiếc là đã không vận dụng nó để lý giải về nguyên nhân cá chết. Có thể trong “đầu” của Đoàn đã quá thiên lệch về các độc tố phenol và xianua.
Trong nước thải này có chứa kation Fe+2 với nồng độ đặc biệt cao, từ 1200 –2000mg/L(4) (trung bình 1,6kg/m3). Việc xử lý 2500m3 nước thải này không thành công tương đương với đổ ra biển 1,6kg/m3 x 2500m3 = 4000kg = 4 tấn kation Fe+2.
Ngoài ra, Formosa Hà Tĩnh, ngày có ngày không (không đều) đã sử dụng 3 – 4 tấn(4) sunfat sắt (FeSO4.4H2O, màu trắng) như là chất xúc tác với H2O2 để nâng cao hơn nữa việc xử lý các chất hữu cơ khó bị sinh hủy, tẩy mầu của nước thuộc hệ thống sinh hóa xử lý nước thải của nhà máy luyện cốc, làm cho nước trong hơn. Trung bình 3,5 tấn FeSO4.4H2O sẽ tạo ra khoảng 1 tấn Fe+2.
Sự cố mất điện và lỗi của nhà thầu phụ đã đổ ra biển một lượng đại khổng lồ, tổng cộng 1 + 4 = 5 tấn kation Fe+2 tương đương(7) với 5,36.1028 kation Fe+2 đủ để phân bố, dàn trải từ Vũng Áng, Hà Tĩnh vào gần đến Thừa Thiên – Huế.
Trong nước biển, các kation và các hóa chất khác hầu như không phản ứng hóa học với oxy. Duy nhất kation Fe+2 lại tác dụng với oxy rất nhanh, rất dễ dàng để tạo ra Fe+3 kết hợp với nước tạo thành hydroxit sắt Fe(OH)3 không độc, kết tủa (màu gạch nâu đỏ), lơ lửng trôi,chúng có thể hấp phụ các độc tố phenol, xianua (lắng dần xuống đáy làm chết san hô), theo phản ứng sau:
Fe+2 + 0,75O2 + 1,5H2O = Fe(OH)3 => cứ 1 kation Fe+2 “ăn” 0,75 phân tử O2
Đây là phản ứng hóa học cơ bản, kinh điển, vài trăm năm nay của ngành cấp nước sinh hoạt đô thị khai thác nước ngầm. Một đặc điểm cơ bản của nước ngầm tầng sâu là không có oxy nên vi khuẩn không tồn tại (nên là nước uống được, nếu không bị tái nhiễm khi bị hút lên bề mặt). Để loại bỏ Fe+2 của nước ngầm, ta thường làm dàn phun mưa để lấy oxy từ không khí. 5 tấn kation Fe+2tham gia phản ứng sẽ tạo ra 9,6 tấn(8) hydroxit sắt Fe(OH)3 lơ lửng, trôi dạt và lắng đọng xuống đáy. Đoàn đại “chiến binh” khổng lồ với 5,36.1028 kation Fe+2 này trên đường hành quân từ Hà Tĩnh vào Huế cứ 1 kation Fe+2 “tiêu diệt” 0,75 phân tử oxy để tạo ra 1 phân từ Fe(OH)3. Hay 5 tấn kation Fe+2 sẽ tiêu diệt 2,143 tấn(9) oxy.
Oxy vốn đã khan hiếm ở tầng đáy vào ban đêm, chỉ cần nồng độ đang từ 3mg/L giảm xuống 2,5mg/L đủ tạo thành vùng chết. Nồng độ oxy bị giảm là 0,5mg/L (0,5g/m3). 2,143 tấn oxy bị mất đi tương ứng với thể tích nước là 2,143×106: 0,5 = 4,3.106m3 nước. Đây là thể tích mà nồng độ các kation Fe+2 và phân tử oxy phân bố hoàn hảo, đồng đều khắp mọi nơi, tương ứng với độ khuấy, xục trộn lý tưởng. Nó tương đương với 21,5.106m3 nước(10) tầng đáy tĩnh tại, ít xáo trộn, gần bằng dải nước với chiều cao cột nước 2,5m x rộng 60m x 150.000m = 22,5.106m3. Nếu lớp 50cm nước sát đáy luôn có nồng độ là 2,5mg/L, thì chiều cao cột nước vùng chết sẽ được nâng lên là 3m. Như vậy, với 5 tấn kation Fe+2 bị xả thải vào biển đã làm cạn kiệt oxy và đã tạo nên một vùng chết rộng lớn dài 150km x rộng 60m x sâu 3m. Những con cá chưa chết ngay, còn ngắc ngoải cùng những hydroxit sắt Fe(OH)3 chưa lắng đọng tiếp tục trôi dạt vào Huế, rồi chết và dừng lại ở đó. 5 tấn kation Fe+2 này cũng đã tạo ra 9,6 tấn hydroxit sắt Fe(OH)3 , một “màng rất rất mỏng” lơ lửng, hấp phụ phenol hay xianua (lắng đọng làm chết san hô rải rác một số nơi).
Giải thích nguyên nhân cá chết là do “ngạt thở” thiếu oxy là hoàn toàn phù hợp với thông lệ thế giới. Thế giới chưa đâu giải thích nguyên nhân cá chết hàng loạt sau 1 đêm là do các độc tố như phenol, xianua, thuốc bảo vệ thực vật gây ra. Kết luận đã công bố cá chết là do phenol, xianua độc không những đã sai, mà còn làm ngư dân hoang mang, lo sợ trong sản xuất kinh doanh.
Phần lớn phenol và xianua đổ vào biển đã bị hòa tan, phần còn lại bị hấp phụ vào hydroxit sắt rồi sẽ bị phân hủy sau một thời gian nhất định. Chỗ nào san hô chết thì đành chịu (vì san hô không biết bơi). Các kim loại nặng trong trầm tích biển có ở khắp nơi trên thế giới, thậm chí còn khủng khiếp hơn ở Việt Nam vì nền công nghiệp của họ đã có trăm năm phát triển. Việc lấy mẫu nước, mẫu trầm tích, mẫu cá phân tích coi như đã thừa, trong khi đất nước còn nghèo. Formosa Hà Tĩnh hiểu chính xác nguyên nhân cá chết là vì đâu, vì họ ĐÃ ĐỔ vào biển từ tháng 12/2015 đến ngày 6/4/2016 khoảng 100 tấn phenol, xianua và các độc tố khác mà tuyệt nhiên không một con cá nào chết.
IV. Về đề xuất giải pháp nạo vét đáy biển của lãnh đạo Đoàn điều tra:
Lãnh đạo Đoàn điều tra đã đề xuất “Sẽ phải hút hàng ngàn tấn trầm tích, kinh phí hút 1.000 tấn cũng phải mất vài nghìn tỷ đồng. Chúng ta sẽ phải hút suốt chiều dài 209 km và phải hút sâu tối thiểu 50cm thì mới đảm bảo sạch biển”.
Giả sử chiều rộng diện tích cần hút là 60m x 209.000m dài x 0,5m sâu = 6,3.106 m3 bùn. Tổng kinh phí(11) chỉ riêng cho nạo vét, hút bùn là 10.875 nghìn tỷ đồng (tương đương 473 tỷ USD!!). Theo Bộ Tài Chính tổng thu NSNN năm 2016 của cả nước khoảng 1014,5 nghìn tỷ. Kinh phí chi cho nạo vét bùn độc gấp hơn 10 lần tổng thu NSNN. Như vậy, hơn 10 năm trời tất cả các cơ quan Đảng và Nhà nước phải nghỉ, đóng cửa, không đầu tư phát triển gì nữa; chỉ duy trì mỗi cơ quan thuế thôi để thu cho đủ mỗi năm 1014,5 nghìn tỷ đồng chỉ để chi cho nạo vét bùn độc, chưa kể các chi phí khác nữa như đào hố, vận chuyển đi chôn lấp bùn độc theo đúng tiêu chuẩn an toàn.
Vì đề xuất của Đoàn điều tra về kết luận nguyên nhân cá chết đã được lãnh đạo chính trị chấp thuận và đã công bố. Nhưng việc nạo bùn quá tốn kém, nếu không đáp ứng được 100% thì chí ít cũng đáp ứng 1%, cũng đã là 10.875 nghìn tỷ x 1% = 109 nghìn tỷ (khoảng 4,73 tỷ USD) trong khi Formosa đồng ý đền bù 500 triệu USD.
Bỏ ra 109 nghìn tỷ đồng để nạo vét đáy biển chỉ vì bị phủ một lớp vô cùng mỏng hydroxit sắt có hấp phụ phenol và xianua, và trầm tích có chứa kim loại nặng vốn đã có từ hàng trăm năm sẽ là một cuộc tàn phá kinh hoàng hệ sinh thái đáy biển, sẽ thêm rất nhiều san hô bị chết.
Đúng là đã có những ý tưởng “khoa học”, ý tưởng “tốt đẹp” nhưng nó đã có sức mạnh tàn phá đất nước ghê gớm. Trên thế giới cũng vậy, có những ý tưởng “khoa học xã hội” cao đẹp nhưng nó ĐÃ kìm hãm sự phát triển của khoảng một nửa thế giới.
Không cần nạo vét. Biển sẽ tự làm sạch. Hãy dành mọi tiền đền bù nhiều nhất có thể để tập trung hỗ trợ cho ngư dân và thúc đẩy đánh bắt xa bờ.
Cần công bố lại nguyên nhân cá chết để người dân yên tâm kinh doanh sản xuất.
V. Về hậu quả của chính sách “Để kinh tế cưỡi trên lưng môi trường”
Sự cố Formosa Hà Tĩnh đã đẩy công ty lên phần nổi của tảng băng. Sau sự cố công ty sẽ chui xuống phần chìm.Phần chìm của tảng băng này với Formosa tạm coi là đầu tầu, đã và đang là cực kỳ nguy hiểm. “Khối u mạn tính khổng lồ vô hình” này chẳng ai biết đến. Đóchính là ô nhiễm mạn tính, kinh niên môi trường (đất, nước và không khí) và ô nhiễm thực phẩm.
Hàng ngày, trên đất nước thân yêu nhưng nhỏ bé của chúng ta có rất rất nhiều tấn rác thải độc hại, nước thải độc hại, khí thải độc hại xả vào môi trường, thuốc trừ sâu phun mù mịt những vùng quê, rửa trôi xuống sông ngòi, ao hồ. Tôm cá có đời sống ngắn ngủi chúng vẫn ăn mọi độc tố trong nước, vẫn sống để chúng ta đánh bắt và tiêu dùng. Qui luật tích tụ và khuyếch đại các độc tố trong chuỗi thức ăn, đang “chuyển” hết mọi độc tố này vào cơ thể chúng ta. Một bó rau chúng ta ăn (cả người nghèo lẫn người giầu), từ khi trồng đến khi có để thu hoạch bán đã phải 3 – 4 lần “ăn” thuốc trừ sâu. Nhiều vạn tấn hóa chất mầu công nghiệp, hóa chất bảo quản, ổn định thực phẩm được pha, trộn vào, sao cho thực phẩm tính từ ngày xuất xưởng, qua các kho, kệ hàng của hệ thống phân phối lưu thông, đến ngày chúng ta ăn không bị ôi, thiu và chua. Rất nhiều trong số đó đều xuất xứ từ Trung Quốc.
Ngày ăn 3 bữa, nhưng hít thở thì chúng ta phải 24/24 giờ, kể cả lúc ngủ. Nhiều vạn các ống khói nhà máy, xí nghiệp; nhiều triệu ống xả của ô tô, xe máy với xăng dầu thuộc diện “bẩn nhất thế giới”; nhiều vạn máy cưa, máy cắt sẻ đá, cắt gạch, mài gỗ v.v.. xả thải mọi thứ vào không khí rồi chui vào những lá phổi của chúng ta.
Theo An ninh thế giới (12) với tiêu đề Kinh hoàng bệnh ung thư “Mới đây, Hội Ung thư Việt Nam đã công bố những con số về bệnh ung thư ở nước ta khiến không ít người có trách nhiệm phải giật mình: Mỗi năm nước ta có hơn 200 ngàn người mắc bệnh và 150 ngàn người chết vì ung thư. Như vậy, số người chết vì ung thư gấp nhiều lần số người chết vì tai nạn giao thông. Cũng với con số này, mỗi năm nước ta mất số dân bằng một huyện lớn vì bệnh ung thư”.
Hàng trăm ngàn người mắc bệnh mỗi năm có nghĩa là ung thư sẽ đến với mọi gia đình và đang trẻ hóa. Cách đây gần 20 năm chúng ta đã có những làng ung thư đầu tiên ở Phú Thọ, biểu tượng của một nền đại công nghiệp với toàn hóa chất, sắt thép, ác qui, chì v.v.; rồi đến xã ung thư, tiến tới huyện ung thư, lan rộng ra tỉnh và hiện nay cả nước đang gồng mình gánh chịu. Cách đây 10 năm, số bệnh nhân ung thư trên một giường bệnh đã là 8 người, khi ấy thì sàn nhà, hành lang, lối đi, vỉa hè cũng trở thành giường. Chính phủ đã phải vội vã, cấp tập đầu tư xây dựng thêm gần chục bệnh viện ung thư mới. Vẫn không xuể, bệnh viện ung bướu Tp. HCM trung bình mỗi ngày có khoảng 1.700 bệnh nhân trong đó có 70% là từ các tỉnh đến khám vào lúc tờ mờ sáng. Để giảm tải và không để bệnh nhân phải khăn gói ngủ qua đêm tại bệnh viện chờ khám (trung bình khoảng 2 ngày) bệnh viện đã tình nguyện tổ chức khám từ tờ mờ sáng 5 – 7 giờ; phát số từ 4 giờ sáng. Sau khi khám xong ngoài giờ, từ bác sĩ cho đến điều dưỡng được nghỉ 15 phút để dùng bữa sáng rồi trở vào với công việc trong giờ hành chính. Trên thế giới có ở đâu như thế này không? Sự cố gắng như vậy là quá quí. Nhưng ở tầm vĩ mô thì đối với ung thư, giải pháp phòng ngừa quan trọng hơn rất nhiều giải pháp điều trị.
Ở Việt Nam thì người giầu cũng như người nghèo, nếu nhịn ăn, nhịn thở thì chết ngay, nhưng ăn vào, thở vào thì chết từ từ.
Góp phần thúc đẩy gia tăng bệnh ung thư chính là quan điểm “sản xuất trước, môi trường tính sau” thấm sâu vào máu rất nhiều cán bộ quản lý, lãnh đạo khắp đất nước. Trong khi nhiều nơi trên thế giới tẩy chay Formosa, thì Hà Tĩnh lăn xả vào đón nhận, trải thảm đỏ, dưới lót vàng, được vay vốn từ các ngân hàng Việt Nam để đầu tư. Ở Việt Nam, chuyên gia kinh tế thân thiện môi trường như đếm trên đầu ngón tay. Họ đều quan niệm rằng đầu tư cho môi trường không phải là đầu tư cho phát triển. Vậy tại sao Châu Âu lại đầu tư rất nhiều cho môi trường. Chính quyền thành phố Soul của Hàn Quốc, trung bình hàng năm dành 33% ngân sách thành phố đầu tư cho bảo vệ môi trường, thế mà họ vẫn phát triển thần kỳ.
Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên, Môi trường tuần vừa qua đã “thú nhận” với báo chí, do phải ưu tiên sản xuất đối với một số ngành công nghiệp, Bộ đã phải hạ tiêu chuẩn xả thải. Gần 10 năm qua Bộ đã ban hành một loạt các QCVN đặc thù, ưu tiên như ngành như sản xuất thép, sơ chế cao su thiên nhiên, công nghiệp chế biến thủy sản, giấy và bột giấy, dệt nhuộm, y tế, cửa hàng xăng dầu và nước thải của các bãi chôn lấp chất thải rắn. Ví dụ: QCVN 40:2011/BTNMT về nước thải công nghiệp nói chung, có tất cả 33 chỉ tiêu. Nhưng QCVN 52: 2013/BTNMT đối với nước thải ngành sản xuất thép rút từ QCVN 40 xuống chỉ còn 12 chỉ tiêu/thông số, loại bỏ đi 21 chỉ tiêu/thông số, ngoài ra còn “nới lỏng” nồng độ một vài thông số; cụ thể tăng lên 5 lần đối với kim loại nặng Cadmi và tổng xianua; tăng gấp 1,5 lần đối với tổng nitơ.
Quốc nạn tham nhũng cộng với bộ máy hành chính khổng lồ, không hiệu quả làm gia tăng khoảng cách giàu – nghèo, bất công trong xã hội, khiến các lãnh đạo chính trị giật mình, cố gắng thu hẹp khoảng cách này lại bằng cách tăng tốc, đẩy mạnh phát triển kinh tế theo kiểu “Bán máu mình đi để ăn” hay “25 tuổi xả thân kiếm tiền, để 50 tuổi xả tiền cứu thân”.
Chủ nghĩa Tư bản ở nhiều nước giầu có trên thế giới cho đến nay vẫn chưa giẫy chết và sụp đổ theo như tuyên bố của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo chủ nghĩa này, tất cả những người giầu có đều là nhờ bóc lột sức lao động của những người lao động làm thuê. Mác và Lê nin đã kêu gọi giai cấp vô sản đứng lên cầm vũ khí “vì nhân dân”, như bài Quốc tế ca kêu gọi, tiêu diệt bọn người giầu có, giai cấp tư sản. Ngày nay, nếu áp dụng học thuyết này thì đất nước ta sẽ lại chìm trong máu lửa.
Tuy nhiên, theo tuyên bố của ông OYSTEIN DAHLE, cựu Phó Chủ tịch tập đoàn dầu khí ESSO khu vực Nauy và Biển Bắc: “Chủ nghĩa tư bản có thê sụp đổ nếu không để giá cả phản ánh sự thật sinh thái” (Capitalism may collapse because it does not allow prices to tell the ecological truth”). Tuyên bố này đã trở thành cương lĩnh, kim chỉ nam cho các đảng cầm quyền ở các nước phát triển “bắt buộc mọi sản phẩm đều phải phản ánh sự thật hệ sinh thái”, nhờ đó họ mới tồn tại và phát triển bền vững.
Rất mừng, là cách đây vài tuần Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã tuyên bố không hy sinh môi trường, không vì sản xuất mà để môi trường bị suy thoái. Bộ Tài Nguyên, Môi trường phải chớp lấy cơ hội này tiến tới xóa bỏ toàn bộ QCVN lỗi thời, lạc hậu, ưu ái sản xuất, thay bằng các qui chuẩn mới nhất của khối EU. Ban hành qui chuẩn thì dễ nhưng cái khó vô cùng là làm sao cho các qui chuẩn được thực hiện nghiêm, khắp mọi nơi. Cần kiện toàn và tăng cường bộ máy Thanh tra môi trường và cảnh sát môi trường. Cũng cần phải nâng cao đạo đức và tình yêu đối với môi trường cho những cán bộ này. Doanh nghiệp sẽ luôn có nhiều cám dỗ để cán bộ thanh tra “tảng lờ, không biết, không thấy”. Để giảm tiêu thụ điện năng của khâu xử lý khí thải, nước thải, doanh nghiệp có thể “cắt cầu dao”, khi nào có tham quan, kiểm tra thì chỉ cần đóng lại cầu dao. Tình trạng này khá phổ biến và kéo dài. Doanh nghiệp gian dối thì được lợi, vì giá thành sản phẩm thấp. Doanh nghiệp sản xuất cùng sản phẩm nhưng nghiêm túc tuân thủ những qui định của môi trường lại chịu thiệt. Họ bị “bắt buộc” phải noi theo “gương xấu”. Đó là tình trạng “mặt bằng thực thi pháp lý gồ ghề sẽ làm tha hóa cả cộng đồng doanh nghiệp”.
Bài đăng có những chỗ không đúng format so với bản gốc. Mời xem bản PDF: Trao doi ve nguyen nhan ca chet 15-
Vai trò của Hillary Clinton trong việc điều tra những hiện tượng bay không xác định
Vai trò của Hillary Clinton trong việc điều tra những hiện tượng bay không xác định

Ứng cử viên Tổng thống của Đảng Dân Chủ – cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton trong một sự kiện vận động tranh cử ngày 24 tháng 5, 2016 ở Commerce, California, trước thời điểm diễn ra cuộc bầu cử Tổng thống sơ bộ vào ngày 7 tháng 6, 2016. (Ảnh: Justin Sullivan/Getty Images).
Tin từ BRANTFORD, Canada:
Trong thập niên 90, bà Hillary Clinton với vai trò Đệ nhất Phu nhân, đã giữ một vai trò quan trọng trong một nỗ lực nhằm tiết lộ thông tin mật của chính phủ về các hiện tượng bay không xác định (UAP, thuật ngữ mới được ưa dùng hơn khi nói tới các vật thể bay không xác định hay UFO). Giờ đây, bà Clinton và người đứng đầu chiến dịch vận động tranh cử của bà, ông John Podesta, đã nói tới việc sẽ công bố bất kỳ tài liệu UAP bí mật nào còn lại nếu bà được bầu làm Tổng thống.
Đây là một cách tiếp cận chưa từng có tiền lệ đối với một chủ đề gây tranh cãi cho một chiến dịch tranh cử Tổng thống. Và mặc dù điều này nằm cách xa trọng tâm của chiến dịch tranh cử của bà Clinton, nhưng nó đã thu hút sự chú ý của rất nhiều người, những người mà từ lâu đã kêu gọi một sự tiết lộ như vậy.
Vào ngày 25 tháng 6 tại Brantford, Canada đã diễn ra một cuộc thảo luận về việc tiết lộ các thông tin liên quan tới UAP, một nhóm các chuyên gia đã thảo luận nhiều chủ đề, một trong số đó là quyền lực của bà Clinton trong quá khứ và tương lai đối với việc tiết lộ các thông tin mật như vậy.
Quảng cáo
Mối Quan Tâm Của Bà Clinton Đối Với UAP Khi Là Đệ Nhất Phu Nhân
Bà Clinton đã đóng vai trò chính, dù bị giới hạn, trong việc thúc đẩy việc tiết lộ các thông tin liên quan đến UAP khi chồng của bà, ông Bill Clinton làm Tổng thống trong thập niên 90.
Một nhà nghiên cứu về UAP nổi tiếng của Canada, người cũng đã tham gia vào hội thảo ở Brantford, ông Grant Cameron đã và đang tập trung nghiên cứu rất nhiều tài liệu nhận được thông qua các yêu cầu truy cập thông tin dựa trên Đạo luật Tự do Thông tin. Một tài liệu trong số đó được gọi là “hồ sơ Rockefeller”, nó gắn liền với một hoạt động thúc đẩy chủ yếu đã được thực hiện bởi tỷ phú hảo tâm, doanh nhân Laurance Rockefeller nhằm tiết lộ thông tin trong nhiệm kỳ của ông Bill Clinton.

Grant Cameron thảo luận về các thông tin liên quan đến UAP mà có thể vẫn đang bị giữ bí mật, tại một buổi điều trần ở Brantford, Canada ngày 25 tháng 6, 2016. (Nguồn: Zland Communications)
“Tất cả mọi thứ đi ra từ ông Rockefeller… và trở lại với ông Rockefeller đều thông qua Văn phòng Đệ nhất Phu nhân”, ông Cameron phát biểu. “Lý do bà Hillary Clinton tham gia vào là vì… bà không phải là quan chức chính thức, bà có thể nhận các tài liệu và đưa nó cho Tổng thống mà không khiến Tổng thống [chính thức] bị kéo vào vấn đề này”.
Lý do bà Hillary Clinton tham gia vào là vì… bà không phải là quan chức chính thức, bà có thể nhận các tài liệu và đưa nó cho Tổng thống mà không khiến Tổng thống [chính thức] bị kéo vào vấn đề này.
Một lá thư đề ngày 1 tháng 11 năm 1995, mà ông Henry Diamond, luật sư của ông Rockefeller, gửi cho ông Jack Gibbons – cố vấn khoa học của Tổng thống từ năm 1993 đến năm 1998, đã đề cập đến một tài liệu đính kèm có tên: “Một thư dự thảo gửi Ngài Tổng thống đang được thảo luận với bà Clinton và các nhân viên của bà”.
Một thông báo mà Gibbons gửi tới Rockefeller đề ngày 5 tháng 2, 1996 có viết: “Ông cho thấy rằng ông sẽ giữ liên lạc với Văn phòng Đệ nhất Phu nhân và chúng tôi cũng sẽ làm điều đó”.

Ông John Podesta là cựu cố vấn của Tổng thống Barack Obama và hiện đang quản lý chiến dịch tranh cử cho bà Hillary Clinton. (Nguồn: Ethan Miller/Getty Images).
Hàng nghìn tài liệu liên quan đến UAP đã được tiết lộ trong nhiệm kỳ của ông Bill Clinton. Nhưng một số người tin rằng các tài liệu quan trọng nhất vẫn đang bị che giấu và họ đang kêu gọi tiết lộ thêm nữa.
Ông Podesta phát biểu trong một cuộc phỏng vấn với KLAS TV: “Vẫn còn có những tài liệu mật có thể được tiết lộ”.
Nhưng ông Chris Mellon, người từng có đặc quyền an ninh cao cấp trong Bộ Quốc phòng Mỹ dưới thời chính quyền Clinton đã phát biểu rằng bà Hillary có lẽ sẽ không tìm thấy nhiều điều hấp dẫn lắm nếu bà lại đào sâu vào vấn đề này.
“Tôi gần như không tin là Bộ Quốc phòng hay bất kỳ cơ quan chính phủ nào khác đang che giấu thông tin về UFO”, ông phát biểu trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 5 với nhà văn Leslie Kean. “Tôi đã tham gia vào một cuộc đánh giá toàn diện đối với các chương trình mật của Bộ Quốc phòng… Tôi đã thăm Khu 51 và các cơ sở quân sự, tình báo và nghiên cứu khác. Trong suốt những năm đó, tôi chưa bao giờ phát hiện một dấu hiệu nào dù là mơ hồ nhất về việc chính phủ quan tâm hay dính líu tới UFO”.
Khả Năng Tiết Lộ Thông Tin Của Bà Clinton Khi Là Ngoại Trưởng Hay Tổng Thống
Ông Mellon đã thảo luận về sự bất lực của các quan chức Nhà trắng trong việc xâm nhập vào các bí mật của Bộ Quốc phòng, và lưu ý rằng ở cương vị Ngoại trưởng Mỹ, có lẽ bà Clinton đã không tiếp cận được sâu vào các bí mật đó.
Ông nói với Leslie Kean rằng: “Tôi nhớ những lần các quan chức Nhà trắng bị từ chối thẳng thừng khi họ yêu cầu những chỉ dẫn rõ ràng về các chương trình rất bảo mật của Bộ Quốc phòng. Quyền tiếp cận các chương trình như thế dựa trên nguyên tắc “need to know”, tức là các thông tin bí mật chỉ được cung cấp cho những người có thẩm quyền mà cần tới nó để thực hiện các nhiệm vụ chính thức. Nhìn chung, không một ai bên ngoài Bộ Quốc phòng, kể cả Ngoại trưởng Mỹ được coi là có quyền tiếp cận. Các quan chức như John Podesta và Ngoại trưởng Clinton có thể dễ dàng phục vụ nhiều năm ở các vị trí cao cấp và tiếp cận rất nhiều các phân tích tình báo mật nhưng không bao giờ được tiếp cận các chương trình bảo mật của Bộ Quốc phòng”.
Tôi nhớ những lần các quan chức Nhà trắng bị từ chối thẳng thừng khi họ yêu cầu những chỉ dẫn rõ ràng về các chương trình rất bảo mật của Bộ Quốc phòng.
Một số nhà nghiên cứu UAP nghĩ rằng nếu có những thông tin bị che giấu kỹ lưỡng về người ngoài trái đất, thậm chí ngay cả Tổng thống cũng có thể bị hạn chế về thông tin, hoặc không có thông tin về chúng. Các chính phủ thay đổi thường xuyên trong khi những nhân viên trong các chương trình mật của Bộ Quốc phòng có thể làm việc trong thời gian tương đương với nhiều nhiệm kỳ của chính phủ. Những người làm việc ở các chương trình mật trong nhiều thập kỷ có thể bảo vệ các bí mật của chúng trước các tổng thống nếu các tổng thống không được cho có nhu cầu cần biết, theo các nhà nghiên cứu UAP.
Tuy nhiên, Cameron khẳng định rằng các Tổng thống có thể mở tất cả các hàng rào an ninh. Ông đề cập đến Sắc lệnh Hành pháp 8381, được soạn vào tháng 3 năm 1940 bởi Tổng thống Fraklin Roosevelt, nó thiếp lập ra cách thức mà chính phủ sẽ xử lý thông tin mật.
Ông Cameron tóm tắt: “Tất cả việc giữ bí mật và việc phân loại thông tin, trừ các bí mật về năng lượng hạt nhân, đều phải thông qua văn phòng điều hành của Tổng thống. Tổng thống là người điều khiển mọi công việc”.
Tổng thống Roosevelt đã phân loại cho thông tin như sau: “hạn chế”, “kín”, “bí mật”. Tổng thống Hary Truman thêm vào loại “tối mật” và Tổng thống Dwight Eisenhower đã thêm loại “an ninh quốc gia”.
Ông Cameron nói: “Tổng thống đã xây dựng ‘hộp bí mật’ này và cơ quan phụ trách việc xây dựng nên cái ‘hộp’ này cũng có thể dỡ bỏ nó. Ngài Tổng thống, tôi nói rằng, đang chỉ huy mọi công việc”.
Các tuyên bố của bà Hillary Clinton về chủ đề này đã xuất hiện trên nhiều phương tiện truyền thông khác nhau. Ví dụ như, bà từng nói với người dẫn chương trình talk – show trên truyền hình Jimmy Kimmel rằng: “Tôi mong muốn chúng ta tiếp cận với những tài liệu này và hy vọng đưa ra công chúng nhiều nhất có thể”. Bà tuyên bố dè dặt và nói rằng bà sẽ tiết lộ các thông tin, “chỉ trừ khi nó gây đe dọa đến an ninh quốc gia”.
Cho đến nay bà đã nói với tờ báo Conway Daily Sun rằng: “Tôi nghĩ chúng ta đã được viếng thăm [bởi người ngoài hành tinh]. Chúng ta không biết chắc chắn”.
Nếu bà Clinton giữ vững lập trường này, không giống như lập trường của bà về tự do thương mại, điều đã thay đổi rất nhiều lần, một tổng thống nhà Clinton có thể cuối cùng sẽ trả lời được câu hỏi là: “Có phải người ngoài hành tinh đang ở ngoài kia?”.
Kính mời quý độc giả ghé thăm chuyên mục Khoa học huyền bí của Việt Đại kỷ nguyên và đăng ký nhận email để tiếp tục khám phá các bí ẩn cổ xưa và các đột phá mới của khoa học.
MYANMAR: CỰU TỔNG THỐNG THEIN SEIN XUẤT GIA
MYANMAR: CỰU TỔNG THỐNG THEIN SEIN XUẤT GIA Lễ xuất gia của ông Thein Sein diễn ra hôm thứ Hai (4-4) – 4 ngày sau khi ông chủ trì một sự chuyển tiếp quyền lực lịch sử cho đảng đối lập trước đây của bà Aung San Suu Kyi – các quan chức cho biết. Hình ảnh trên phương tiện truyền thông cho thấy cựu Tổng thống xuống tóc và mặc áo cà-sa, bên cạnh một bạn đồng tu. Bộ Thông tin đã ra tuyên bố trên trang Facebook của mình hôm thứ Hai nói rằng ông Thein Sein sẽ trải qua 5 ngày tại Tu viện Dhamma Dipa bên ngoài Pyin Oo Lwin, một thị trấn có cảnh đồi gần Mandalay, miền trung Myanmar. Việc xuất gia gieo duyên tại một tu viện rất phổ biến ở đất nước chủ yếu theo Phật giáo này, nơi các chàng trai được kỳ vọng sẽ xuất gia làm tu sĩ tại một thời điểm nào đó trong thời thơ ấu và sau đó hoàn tục ở tuổi trưởng thành. Chính ông Thein Sein đã không nói chuyện công khai về sự lựa chọn gieo duyên làm nhà sư nhưng tuyên bố chính thức cho thấy ông đã xem xét điều đó ít nhất là kể từ tháng 1 khi ông tham dự một hội nghị Phật giáo tại Myanmar. “Gần đây, nhà sư được kính trọng nhất của đất nước, Sitagu, kêu gọi cựu Tổng thống Thein Sein nên xuất gia khi ông tham dự Hội nghị Phật giáo thế giới”, tuyên bố của Bộ Thông tin cho biết. “Ông Thein Sein nói với sư Sitagu rằng ông đang bận rộn với nhiệm vụ của một tổng thống và hứa rằng sẽ thế phát ngay sau khi ông kết thúc nhiệm kỳ tổng thống của mình”. Ông Thein Sein, một cựu tướng lĩnh quân đội, đã giữ chức vụ tổng thống cho nhiệm kỳ 5 năm trong năm 2011 trong một chính phủ dân sự trên danh nghĩa sau nửa thế kỷ cai trị của quân đội. Trong tháng 11, cả nước đã tổ chức cuộc bầu cử tự do đầu tiên trong nhiều thập kỷ và Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ của bà Suu Kyi đã giành chiến thắng vang dội. Ông Thein Sein chuyển giao quyền lực cho Tổng thống mới Htin Kyaw, người được lựa chọn cẩn thận bởi bà Suu Kyi, trong một buổi lễ thứ Năm tuần trước. Văn Công Hưng (Thep AP) |
Lý do Pháp “dấn thân” vào Biển Đông
Lý do Pháp “dấn thân” vào Biển Đông
TTK | 20/07/2016 10:05

Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian phát biểu tại Hội nghị cấp cao An ninh châu Á lần thứ 15 ở Singapore ngày 5/6. Ảnh: EPA/TTXVN
Gần đây, Paris đã cho thấy rõ ý định “dấn thân” vào Biển Đông, thậm chí khuyến khích EU tích cực hơn trong việc hậu thuẫn cho các nỗ lực của Mỹ.
Cho đến nay, khi đề cập đến Biển Đông, người ta thường chú ý đến các nước có liên quan trực tiếp như Việt Nam, Philippines, Trung Quốc…, hay các cường quốc ngoài khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ…
Tuy nhiên, thái độ ngày càng hung hăng của Trung Quốc đã khiến cho nhiều nước khác quan ngại, trong đó có Pháp.
Bất chấp nguy cơ có thể khiến Bắc Kinh phật ý, trong thời gian gần đây, Paris đã cho thấy rõ ý định lại “dấn thân” vào Biển Đông, thậm chí khuyến khích Liên minh châu Âu (EU) tích cực hơn trong việc bảo vệ quyền tự do hàng hải trong khu vực, hậu thuẫn cho các nỗ lực của Mỹ.
Trong một bài phân tích được trang mạng The Diplomat của Nhật Bản công bố ngày 14/7, ông Yo-Jung Chen, từng là một nhà ngoại giao Pháp gốc Đài Loan, đã không ngần ngại cho rằng quyết định “dấn thân” của Paris đã làm tăng thêm tình trạng bị cô lập của Bắc Kinh trong vấn đề Biển Đông.
Tác giả đã nhắc lại sáng kiến vừa được Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian nêu lên ngày 5/6 vừa qua tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, theo đó EU cần tổ chức những chiến dịch tuần tra chung tại “các vùng biển châu Á”, và duy trì “một sự hiện diện thường xuyên và rõ rệt” tại đó.
Để làm điều đó, nước Pháp sẵn sàng đứng ra phối hợp các lực lượng Hải quân của các nước thành viên EU nhằm tiến hành các chiến dịch tuần tra bảo vệ quyền tự do hàng hải (FONOP) ở Biển Đông.
Dĩ nhiên, Trung Quốc không được nêu đích danh trong phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Le Drian (vì Trung Quốc không phải là nước duy nhất tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông), nhưng sáng kiến của Pháp đã được coi là một tin xấu đối với Bắc Kinh, vốn đã rất bực tức trước những điều mà Trung Quốc coi là “hành vi can thiệp từ bên ngoài” của Mỹ và đồng minh vào cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước láng giềng ven Biển Đông.
Tuy nhiên, về mặt quân sự, kế hoạch của Pháp sẽ không có tác động quyết định nào đến tình hình Biển Đông.
Lý do rất dễ hiểu, dù là một trong những cường quốc quân sự trên thế giới, song sự hiện diện quân sự của Pháp trong khu vực rất khiêm tốn, còn các nước EU khác thì hoàn toàn vắng bóng.
Cho dù vậy, theo tác giả bài viết, sáng kiến của Pháp rất có khả năng có giá trị lớn hơn về mặt ngoại giao, vì nó làm gia tăng đáng kể thế bị cô lập gần như hoàn toàn của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, thể hiện qua thất bại của Bắc Kinh trong việc hình thành một liên minh quốc tế nhằm ủng hộ lập trường Biển Đông của Trung Quốc, chống lại phán quyết ngày 12/7 vừa qua của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ở Hà Lan.
Sáng kiến của Pháp, nếu được hưởng ứng, sẽ tiếp tục làm suy yếu vị thế của Trung Quốc vì lôi kéo được một khối “nặng ký” như EU vào việc gây thêm áp lực quốc tế buộc Bắc Kinh tôn trọngluật pháp quốc tế, được thể hiện trong phán quyết của PCA.
Câu hỏi đang được nhiều người đặt ra là tại sao Pháp và EU, vốn có lợi ích thương mại quan trọng với Trung Quốc, lại dám “dấn thân” vào Biển Đông, dù biết rõ rằng điều đó sẽ làm Bắc Kinh phật ý?
Theo tác giả bài viết trên tờ The Diplomat, nguyên nhân chính là do thái độ của Bắc Kinh.
Pháp và EU ngày càng quan ngại rằng các hành động hung hăng bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông và việc Bắc Kinh phủ nhận thẩm quyền của PCA sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn đề quản trị toàn cầu và tôn trọng pháp luật quốc tế, với những hệ quả vượt quá khu vực Đông Nam Á.
Trong bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-La, Bộ trưởng Quốc phòng Le Drian không nói gì hơn khi cho rằng nếu luật pháp quốc tế và quyền tự do hàng hải không được tôn trọng ngay bây giờ và ngay ở Biển Đông, thì sau này chúng sẽ bị vi phạm ở những nơi khác trên thế giới, kể cả bên trong và xung quanh châu Âu.
theo Báo tin tức