VN và các nước ASEAN chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng “phương tiện hòa bình”. Nội bộ các nước ASEAN có cơ chế giải quyết các tranh chấp, gọi là “ADSM – ASEAN Dispute Settlement Mechanism”. Nếu ta đọc “Nghị định thư” tháng 12-2016, Cơ chế đặc biệt áp dụng cho các tranh chấp về “thương mại”.
Những tranh chấp khác, ngoài thương mại, như tranh chấp về biên giới, về chủ quyền lãnh thổ, về việc phân định ranh giới trên đất liền, trên biển… hầu hết các quốc gia thuộc ASEAN lựa chọn tòa Công lý quốc tế (ICJ).
Các quốc gia Thái lan, Campuchia, Singapour, Indonesia, Mã lai… là quốc gia thành viên, nhìn nhận thẩm quyền của Tòa ICJ.
Campuchia và Thái lan hai lần nhờ Tòa ICJ phân xử về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear (và vùng đất chung quanh). Indonesia và Mã lai cũng đã nhờ Tòa ICJ giải quyết tranh chấp chủ quyền các đảo Pulau Legitan và Pulau Sipadan. Trong khi Mã lai và Singapour cũng nhiều lần nhờ Tòa ICJ giải quyết chủ quyền các đảo Pedra Branca (và các vấn đề liên quan)…
Các quốc gia như Myanmar lựa chọn Tòa án quốc tế về luật biển (ITLOS) để giải quyết việc phân định ranh giới biển với Bangladesh. Phi thì lựa chọn Tòa Trọng tài thường trực (PCA) với cơ chế “thủ tục bắt buộc” của UNCLOS để khiếu nại TQ về việc “giải thích và cách áp dụng luật biển”…
Từ khi các bãi đá chìm nổi thuộc TS mà TQ chiếm của VN năm 1988 được xây dựng thành những căn cứ quân sự năm 2016, TQ thường xuyên, và liên tục nhiều tháng trong mỗi năm, có những hành vi quấy nhiễu vùng biển EEZ của VN, Phi, Mã lai… bằng các phương tiện (hầu như) quân sự được khéo léo ngụy trang dưới hình thức “dân quân” hay các tàu hải cảnh…
Tàu bè hải cảnh và dân quân TQ nhờ các đảo nhân tạo Đá Chữ thập, đá Subi, đá Gạc ma…, lấy các nơi đây làm căn cứ xuất phát cũng như hậu trạm cho nhân sự nghỉ ngơi và tu bổ tàu bè…
Hành vi gây hấn thường xuyên của TQ vì vậy gắn liền với sự hiện hữu các căn cứ quân sự.
Nếu ta so sánh ASEAN với Hiệp hội các quốc gia Châu Mỹ (thành lập năm 1948), cơ chế giải quyết tranh chấp của hiệp hội này là Tòa Công lý Quốc tế (ICJ). Tất cả những tranh chấp ở đây đều lấy Tòa Công lý quốc tế làm cơ chế giải quyết.
VN (và các quốc gia ASEAN) đã bỏ lỡ một cơ hội sử dụng luật pháp quốc tế để ngăn chặn TQ trong việc xây dựng đảo cũng như quân sự hóa các đảo.
Theo tôi, VN sẽ dễ dàng bảo vệ lợi ích của mình, trước hết củng cố cơ chế giải quyết tranh chấp trong nội bộ các nước ASEAN, tương tự hiệp hội các quốc gia Châu Mỹ: Sử dụng Tòa Công lý quốc tế làm cơ chế giải quyết tranh chấp liên quốc gia.
Và chỉ từ cơ chế giải quyết này VN và các nước ASEAN mới có cơ sở thương lượng với TQ về Bộ qui tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC).
Nếu COC không có cơ chế giải quyết tranh chấp là một Tòa án quốc tế (như ICJ), thì cam kết này chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích của TQ.
PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao nói về Hội thảo về vùng biển bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế
Vụ việc ở vùng biển bãi Tư Chính là “cực kỳ nguy hiểm” không chỉ với chủ quyền biển đảo mà còn cho an ninh quốc phòng của Việt Nam, “kể cả trên đất liền”, một nhà nghiên cứu chính sách và pháp luật nói với BBC News Tiếng Việt ngay sau một Tọa đàm Khoa học ở Hà Nội hôm Chủ nhật, 06/10/2019 về vùng biển này và luật pháp quốc tế.
“Không phải như những lần trước, năm 2016 hay trước nữa, là họ vào rồi họ ra như phép thử, mà lần này nó thể hiện một loạt hành động nhất quán và bây giờ vẫn đang hoạt động,” PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao, từ Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta), đơn vị đồng tổ chức, tóm lược với BBC kết quả và nội dung chính của Hội thảo.
“Đang có những hành động sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trên các vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và chủ quyền của Việt Nam. Cho nên cái đầu tiên phải nhận diện rõ đây là nguy cơ rất lớn đối với Việt Nam,” nguyên Phó vụ trưởng Ban Biên giới Chính phủ VN nói.
“Thế nhưng cùng với nguy cơ đó, cũng có ý kiến cho rằng và cũng nhiều người đồng tình là trong nguy cơ này cũng lại có một cơ hội để Việt Nam có thể vượt qua nguy cơ này và phát triển được.
“Đó là phải xác định rõ bạn – thù, đó là việc Việt Nam phải liên minh với Hoa Kỳ và các nước phương Tây, ở đây cũng đã nhắc đến chính sách ‘Ba không’, thì cần phải hóa giải chính sách ba không này bởi một điều khoản rất quan trọng của Hiến chương Liên hiệp quốc – đó là quyền tự vệ chính đáng.
Bản quyền hình ảnhFB NGUYỄN XUÂN DIỆNImage captionThiếu tướng Lê Mã Lương, nguyên Viện trưởng Việt Nghiên cứu Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng VN, phát biểu tại Tọa đàm (các hình do TS Nguyễn Xuân Diện cung cấp)
“Tôi không thể duy trì chính sách “Ba không” nếu như chính sách ba không đó không giúp cho tôi bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển và trong trường hợp nếu tôi bị xâm lăng, thì Liên Hiệp quốc cho phép tôi có được quyền tự vệ chính đáng.
“Và để làm sao đó tránh được cuộc chiến tranh, nếu như Trung Quốc gây chiến, thì Việt Nam phải mạnh lên, mạnh dạn hơn trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là phải tỏ rõ lập trường của mình trong quan hệ với Hoa Kỳ, cũng như các nước văn minh, các nước phát triển trong khu vực như là Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ và xa hơn nữa là các nước EU.
“Đấy chính là một trong những giải pháp để mà Việt Nam trong nguy cơ đó, có thể hóa giải được hành vi xâm lăng, bành trướng của Trung Quốc ở bãi Tư Chính, đấy là một nhận định, ý kiến theo tôi rất quan trọng, nhận diện được vấn đề và tìm gia một giải pháp.
“Và cái thứ hai, vấn đề cũng rất lớn, đó là khẳng định rằng đây chính là thời cơ chính muồi, đây chính là thời cơ quan trọng nhất, ở thời điểm quan trọng nhất để khởi kiện Trung Quốc ra cơ quan tài phán quốc tế.”
Nhà nghiên cứu nói thêm về kết luận và nội dung chính rút ra từ hội thảo:
“Và về phía Việt Nam, mọi người khẳng định rằng: thứ nhất chính nghĩa, thứ hai bằng chứng, chứng cứ lịch sử pháp lý về chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa khu vực bãi Tư Chính là có thể nói và khẳng định là không có vấn đề.
Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM/GETTY IMAGESImage captionMột cảnh sát biển Việt Nam trong lúc quan sát tàu hải cảnh VN di chuyển gần dàn khoan của Trung Quốc tháng Năm, 2014.
“Khẳng định là chắc chắn và việc khởi kiện cũng mang lại thành công cho Việt Nam,” ông Hoàng Ngọc Giao nói về cuộc Hội thảo từ quan điểm cá nhân từ Hà Nội.
Cuộc Tọa đàm khoa học hôm Chủ nhật trước đó đã được Ban tổ chức chủ động rời thời gian lại để chuẩn bị tốt hơn và phù hợp hơn với thời gian của khách mời, ông Giao cho biết.
Được biết, trong số các diễn giả, chuyên gia và khác mời tham dự, có các vị như Vũ Ngọc Hoàng, Thang Văn Phúc, Chu Hảo, Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Nguyễn Khắc Mai, Trần Thị Băng Thanh, Đặng Văn Sinh, Hoàng Quốc Hải, Phạm Huy Thông, Nguyễn Xuân Hãn, Nguyễn Đình Cung, Nguyễn Trung, Nguyễn Nguyên Bình, Nguyễn Đình Cống, Hoàng Việt, Trần Ngọc Vương, Đinh Hoàng Thắng, Vũ Hùng, Nguyễn Vi Khải, Nguyễn Văn Cương, Trần Thanh Vân, Nguyễn Quang Dy, Nguyễn Xuân Diện, Hoàng Ngọc Giao, Lê Mã Lương, Đào Tiến Thi, Phạm Viết Đào.
Căng thẳng và đối đầu giữa Việt Nam và Trung Quốc vùng biển bãi Tư Chính đã nóng lên trong suốt các tháng Hè và kéo dài chưa dứt qua mùa Thu năm 2019.
Về phía Trung Quốc, tháng trước, nước này nói Việt Nam phải chấm dứt các hoạt động khoan tìm dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính, nơi mà Trung Quốc gọi là Vạn An Than, và có tên tiếng Anh là Vanguard Bank.
Các hoạt động tại vị trí ở ngoài khơi Vũng Tàu này, Bắc Kinh tuyên bố hôm thứ Tư, 18/9/2019, là “vi phạm chủ quyền của Trung Quốc ở Nam Hải (cách Trung Quốc gọi Biển Đông)”.
Trong cuộc họp báo định kỳ, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Cảnh Sảng lên tiếng bác bỏ các cáo buộc của Việt Nam theo đó nói các tàu nghiên cứu Trung Quốc đã xâm phạm quyền tài phán của Hà Nội ở Biển Đông.
Bản quyền hình ảnhFB NGUYỄN XUÂN DIỆNImage captionThiếu tướng, PGS. TS. Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Công an VN, phát biểu tại Tọa đàm khoa học
“Việt Nam đã đơn phương tiến hành các hoạt động khai thác dầu khí từ tháng Năm tới nay, và việc này vi phạm nghiêm trọng các quyền và lợi ích của Trung Quốc, đồng thời vi phạm các thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam,” ông Cảnh Sảng nói.
“Theo Điều 5 Tuyên bố về Ứng xử của Các Bên ở Nam Hải (DOC) và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Việt Nam phải ngay lập tức chấm dứt các hoạt động đơn phương và phải khôi phục hòa bình trong khu vực.”
“Trung Quốc sẵn sàng giải quyết các vấn đề liên quan thông qua các tham vấn hữu nghị với Việt Nam,” ông Cảnh Sảng nói thêm.
Bản quyền hình ảnhFB NGUYỄN XUÂN DIỆNImage captionCác đại biểu trao đổi bên lề Tọa đàm hôm Chủ nhật 06/10/2019
Đầu tháng này, trong một diễn biến liên quan, Việt Nam qua kênh ngoại giao nói sẽ nâng cao nhận thức về tình hình Biển Đông trong cuộc đối thoại an ninh hàng năm với Ấn Độ trong tháng Mười, HinduStan Times trích lời Đại sứ Việt Nam, ông Phạm Sanh Châu, cho hay.
Căng thẳng giữa Hà Nội và Trung Quốc ngày càng gia tăng vì sự xâm nhập liên tục của các tàu Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông, và Việt Nam dường như đang cố gắng củng cố sự hỗ trợ của Ấn Độ trong vùng biển này.
Trả lời phỏng vấn của thời báo Ấn Độ, Đại sứ Việt Nam tại nước Nam Á này cho biết kể từ tháng 7/2019, các tàu Trung Quốc đã bốn lần xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Vụ xâm nhập mới nhất của 28 tàu Trung Quốc bắt đầu vào ngày 30 tháng 9 và vẫn đang tiếp tục mặc dù Việt Nam đã 40 lần lên tiếng phản đối qua các nẻo ngoại giao, kể từ lần xâm nhập đầu tiên ba tháng trước.
”Chúng tôi nói với họ rằng họ không nên vi phạm vùng biển của Việt Nam và nên rút tất cả các tàu về càng sớm càng tốt,’ nhà ngoại giao Việt Nam được báo Ấn Độ dẫn lời nói hôm 2/9.