Monthly Archives: August 2020

Thủ tướng Shizo Abe từ chức: Sự nghiệp và câu hỏi cho Nhật Bản

Thủ tướng Shizo Abe từ chức: Sự nghiệp và câu hỏi cho Nhật Bản

  • Quốc Phương
  • BBC News Tiếng Việt, London
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và vợ hồi năm 2019

Chụp lại hình ảnh,Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và vợ hồi năm 2019

Ý kiến của học giả từ Nhật Bản bình luận với BBC News Tiếng Việt về việc Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe ‘từ chức’ vì lý do ‘sức khỏe’ cùng tác động, hệ lụy về nội trị và bang giao của Nhật Bản từ diễn biến này.

Hôm 28/8/2020, Thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzo, 65 tuổi, đã chính thức tuyên bố từ chức vì lý do sức khỏe.

Trong một cuộc họp báo tại thủ đô Tokyo được truyền thông, báo chí Nhật Bản đưa tin rộng rãi, nhà lãnh đạo nội các năm nay 65 tuổi tuyên bố “Tôi quyết định từ chức thủ tướng” và ông cho biết nguyên nhân là vì căn bệnh “đường ruột tái phát”.

Diễn biến này đã ngay lập tức thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế, cũng như tại Nhật Bản và được cho là một tin tức ‘chấn động’, mặc dù Thủ tướng Abe Shinzo nói ông sẽ tiếp tục điều hành công việc của nội các cho đến khi có tân thủ tướng thay thế.

Từ Nhật Bản, Giáo sư Hirohide Kurihara, thuộc Đại học Tổng hợp Tokyo, nhân dịp này dành cho BBC News Tiếng Việt một cuộc trả lời phỏng vấn qua bút đàm trực tiếp bằng tiếng Việt, mà trước tiên ông đề cập đâu là điều đang được công luận và các giới quan sát của Nhật Bản quan tâm và đặt ra:

Tôi cho rằng chủ yếu có hai câu hỏi sau đặt ra bởi công luận: đó là tình trạng sức khỏe của ông Abe thế nào? Xin từ chức có nghĩa là tình trạng sức khỏe “rất xấu”? Và thay ông Abe là ai?

BBC: Việc ông Abe Shinzo từ chức sẽ có tác động ảnh hưởng gì tới đối nội (chính trị đối nội)

Có lẽ không ảnh hưởng gì tới đối nội. Bởi vì Đảng Tự do dân chủ (LDP) đang chiếm đa số ghế trong Quốc hội (cả Thượng nghị viện lẫn Hạ nghị viện).

Nhưng tôi cho rằng sau khi thôi việc ông Abe sẽ vẫn giữ ảnh hưởng to lớn trong Đảng LDP.

BBC:Có thể có ảnh hưởng, thay đổi gì không tới bang giao và chính sách đối ngoại của Nhật Bản như với Trung Quốc, phương Tây, Mỹ, hai miền Triều Tiên, Asean và đặc biệt là với Việt Nam?

Theo lý do đã đề cập ở trên, tôi dự đoán trước mắt chính sách đối ngoại của Nhật Bản cũng không có gì thay đổi.

‘Tiêu diệt hết chống đối’?

BBC:Phương án nổi bật thay thế ông Abe Shinzo như thế nào? Có những ứng viên nào quan trọng và đáng kể nhất và khả năng của họ?

Ông Abe đã “tiêu diệt” những người chống đối mình trong Đảng LDP nên không có người thừa kế đáng kể. Bây giờ bên Nhật Bản đang nổi lên tên các ông sau: KISHIDA Fumio, ISHIBA Shigeru, KAWANO Taro v.v…

BBC: Mô hình, thể chế chính trị đa đảng phái của Nhật Bản và đảng cầm quyền của ông Abe Shinzo có bị ảnh hưởng gì không trước một sự thay đổi cá nhân, dù cá nhân có thể chấp chính, cầm quyền lâu năm hoặc có vị thế lớn?

Hiện nay trong Đảng LDP không có nhân sĩ nào bất động chính kiến với ông Abe nữa; ông Abe sẽ tiếp tục giữ uy tín trong Đảng LDP; còn lực lượng các đảng đối lập vẫn yếu. Vì thế nên tôi dự đoán không có sự thay đổi gì.

BBC:Các đảng đối lập hiện đang tính toán gì? Thực lực của họ ra sao?

Đáng tiếc các đảng đối lập nằm trong quá trình tổ chức lại và chưa tìm ra được trụ cột chung để tranh thủ sự ủng hộ của đại đa số nhân dân Nhật Bản, dù nói chung 60 % toàn thể cử tri không ủng hộ Đảng cầm quyền.

Đáng khen cả hay có chỉ trích?

BBC:Nhìn lại sự nghiệp làm Thủ tướng của ông Abe Shinzo qua mấy nhiệm kỳ cho tới nay, ông được khen ngợi cả, hay là có bị chỉ trích gì không? Nếu có, thì chỉ trích đó là gì?

Ông Abe tự hào là sau khi ông được bầu làm Thủ tướng tình hình kinh tế ở Nhật Bản đã khá lên nhiều, nhưng qua cuộc sống thực tế tôi không bao giờ cảm thấy như ông Abe.

Ông Abe không đầu tư nhiều vào lĩnh vực giáo dục, khoa học và văn hóa. Có lẽ hậu quả đó sẽ dần dần hiện lên trong tương lai không xa.

Ông hay tỏ ra thái độ coi thường các đảng đối lập. Tôi cho rằng đó là hành động làm hỏng nền tảng của thể chế dân chủ: đó là kính trọng nhau mặc dù lập trường và chính kiến khác nhau.

Ông Abe có mặt mơ hồ về ranh giới giữa quan hệ cá nhân – bạn bè và quan hệ ngoại giao, tuy vậy ông là Thủ tướng Nhật Bản đầu tiên giữ lại lập trường dứt khoát đối với các yêu cầu và hành động vô lý của Hàn Quốc.

BBC: Về vấn đề sức khỏe và từ chức của lãnh đạo cấp cao (ở đây là chức Thủ tướng ở Nhật Bản), cách mà ông Abe Shinzo chọn từ chức trong văn hóa chính trị Nhật Bản, Giáo sư có so sánh gì với Việt Nam hay không, như đương kim Tổng Bí thư ĐCSVN và Chủ tịch nước Việt Nam được cho là có vấn đề sức khỏe trong vòng 2 năm qua và khá vắng mặt trước công chúng?

Cái đó thì chúng ta hỏi ông Nguyễn Phú Trọng mới biết được. Tuy vậy ta nên suy ngẫm: tại sao ông Trường Chinh (cố Tổng Bí thư của đảng CSVN) đã xóa bỏ chế độ chung thân (hết đời) đối với lãnh đạo cao cấp.

‘Chính trị gia cũng là con người’

BBC:Giáo sư có bình luận gì về cách thức thông tin về sức khỏe của lãnh đạo hay yếu nhân tại Nhật Bản khi họ đang tại chức?

Các nhà chính trị (nghị sĩ) cũng là con người. Họ có quyền lựa chọn: thôi việc hay tiếp tục. Chúng ta cần tạo ra môi trường để họ có thể quyết định tương lai của họ.

BBC:Ông có dự báo gì thêm về tình hình chung của Nhật Bản trong thời gian tới đây, hậu Abe Shinzo? Ngoài ra, việc thay thế (tạm thời) hay chính thức (qua bầu cử, hiệp thương trong đảng, liên đảng) có thể nhanh, chậm hay không và thế nào?

Theo tôi, trong nhiệm kỳ 8 năm của ông Abe nhiều vấn đề nghiêm trọng như tài chính, giáo dục, phúc lợi, v.v… chưa được giải quyết mà cứ để lại. Đồng thời rõ ràng là Đảng LDP chiếm nhiều ghế nhưng không có khả năng giải quyết vấn đề.

Còn bên Nhật chưa có thế lực thay thế LDP. Cũng tại cử tri như chúng tôi. Có lẽ chúng tôi sẽ phải đối xử với tình trạng đầy khó khăn và gian khổ trong tương lai không xa.

Giáo sư Hirohide Kurihara làm việc tại Đại học Tổng hợp Tokyo, ông đồng thời là nhà nghiên cứu châu Á và Việt Nam học, ông cũng quan tâm và có các nghiên cứu về văn hóa chính trị, vai trò cá nhân cấp cao và tập thể trong lãnh đạo chính trị, cầm quyền, ông đồng thời có các nghiên cứu về chính trị, bang giao, xung đột khu vực, trong đó có khảo cứu về chiến tranh biên giới Trung – Việt.

Advertisement
Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Biển Đông: Cố vấn an ninh Mỹ nói tuyên bố chủ quyền của TQ là ‘lố bịch’

Biển Đông: Cố vấn an ninh Mỹ nói tuyên bố chủ quyền của TQ là ‘lố bịch’

Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Donald Trump, ông Robert O'Brien

Chụp lại hình ảnh,Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Donald Trump, ông Robert O’Brien

Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Donald Trump, ông Robert O’Brien, gọi những tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông là “lố bịch”, theo SCMP.

Ông Robert O’Brien cũng thông báo các cuộc gặp sắp tới với những người đồng Nhật Bản, Ấn Độ và Úc để tăng cường quan hệ đối tác quốc phòng trong khu vực.

Ông Robert O’Brien nói rằng tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với gần như toàn bộ Biển Đông – nơi Việt Nam, Indonesia, Philippines và các nước Đông Nam Á khác tuyên bố một phần chủ quyền – đã bị “tất cả các nước lớn, tất cả các nước có biển bác bỏ”.

Phát biểu của ông O’Brien được đưa ra trong một cuộc thảo luận trực tuyến với Paula Dobrianky, phó Chủ tịch Trung tâm Scowcroft về Chiến lược và An ninh của Hội đồng Đại Tây Dương.

“Tuyên bố của Trung Quốc đã bị [một tòa án] về Luật Biển bác bỏ, và bây giờ họ tham gia vào các cuộc tập trận quân sự ở những vùng biển mà họ coi là của mình,” ông O’Brien đề cập đến phán quyết năm 2016 của tòa án tại The Hague, trong đó xác định Trung Quốc không có “quyền lịch sử” đối với Biển Đông.

“Hoa Kỳ sẽ không lùi bước so với các nguyên tắc lâu nay của mình rằng các tuyến đường biển trên thế giới và vùng biển quốc tế phải được tự do đi lại, điều này cũng tương tự như vậy với không gian và quyền trên không trong không phận quốc tế.”

Bắc Kinh đã bác bỏ phán quyết của tòa ở The Hague, cho rằng nó là “không có ràng buộc pháp lý”.

Ông O’Brien cho biết các cuộc họp cấp cao của “Bộ Tứ”, bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ đang được lên kế hoạch và Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompe sẽ gặp ngoại trưởng của các nước này vào tháng 9 và tháng 10

Ông O’Brien cũng nhắc đến hệ thống giám sát và tính điểm công dân ở Trung Quốc và cho rằng việc Mỹ phản đối Trung Quốc là một phần của nỗ lực rộng lớn hơn nhằm thách thức chủ nghĩa toàn trị mà Washington và các đồng minh đã thực hiện kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc.

“Bạn có một Đảng Cộng sản Trung Quốc là người thừa kế … Đảng Cộng sản Nga của Stalin,” ông nói. “Họ có toàn quyền kiểm soát người dân của họ và … [và] hiện đang khai thác quyền kiểm soát đó ở những nơi như Hong Kong, nơi họ vứt bỏ tuyên bố Trung-Anh và áp đặt luật an ninh quốc gia đối với Hong Kong,

“Họ đang bắt nạt, Trung Hoa Dân Quốc, Đài Loan, họ đang cố gắng bắt nạt Ấn Độ,” O’Brien nói thêm. “Điều đó sẽ khó khăn hơn đối với họ vì người Ấn sẽ không chấp nhận điều đó. Họ sẽ đứng lên bảo vệ quyền chủ quyền của chính họ. “

Tranh chấp giữa Bắc Kinh và Washington về Biển Đông ngày càng leo thang kể từ khi Bắc Kinh bắt đầu hoạt động cải tạo đất vào năm 2016 ở một số địa ở quần đảo Trường Sa và xây dựng một thành phố mới trên một trong những hòn đảo – Tam Sa trên đảo Phú Lâm.

Chính quyền Trump đưa ra lời thách thức trực tiếp đối với các tuyên bố của Trung Quốc bằng cách gọi chúng là “hoàn toàn bất hợp pháp”.

Mới đây, Trung Quốc đã bắn hai tên lửa vào Biển Đông để phản ứng lại việc mà Trung Quốc cho rằng Mỹ đã đưa máy bay do thám vào vùng biển ‘cấm’ – nơi Bắc Kình đang diễn tập bắn đạn thật.

Categories: Biển Đông | Leave a comment

Ðức Huỳnh Giáo Chủ

Ðức Huỳnh Giáo Chủ
Vương Kim

Ðức Phật, Hoàng thiên lịnh giáng trần,

Huỳnh gia chuyển kiếp lập đời Tân.

Giáo truyền đạo Thích dìu sanh chúng,

Chủ ý chọn người vẹn Tứ ân.

(Hình Tác giả: Vương Kim Phan Bá Cầm)

Phần I:

HÀNH TRẠNG

 

Thiên thứ nhứt

Giai đoạn ra đời mở đạo

 

Chương I: Bối cảnh xã hội

Chương II:Thân thế

Chương III: Ra Tế độ

Chương IV: Đăng Sơn

Chương V: Sứ Mạng

Chương VI: Lưu Cư

Chương VII: Vận Ðộng Ðộc Lập

Chương VIII: Tổ Chức Hàng Ngũ

Chương IX: Chuẩn Bị Ðấu Tranh

 

Thiên thứ hai

Giai đoạn hoạt động đấu tranh

 

Chương X: Dấn Thân

 

Thiên thứ ba

Giai Ðoạn Vắng Mặt

 

Chương XI: Lý Do Thọ Nạn

Chương XII: Còn Hay Mất

 

Phần II:

SỰ NGHIỆP

 

Thiên thứ tư

Sự Nghiệp Về Mặt Ðạo

Tôn Phái Phật Giáo Hòa Hảo

 

Chương XIII: Học Phật

Chương XIV: Tu Nhân

 

Thiên thứ năm

Sự Nghiệp Về Mặt Ðời:

Công nghiệp cách mạng

 

Chương XV: Quân Sự.

Bộ Ðội Nguyễn Trung Trực

 

Chương XVI: Chánh Trị

Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng

 

Cùng một tác giả:

Long Hoa xuất bản

–         Tận Thế và Hội Long Hoa (1952)

–         Đức Phật Thầy Tây An (1953) (hiệp với Đào Hưng)

–         Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo (1954) (hiệp với Thanh Sĩ)

–         Ðời Hạ Ngươn (1960)

–         Đời người dướI ánh sáng Đạo Phật (1960)

–         Bửu Sơn Kỳ Hương (1966)

–         Hành sử Đạo Nhân (1970)

–         Tu Hiền (1972)

–         Đời Thượng Ngươn (1973)

–         Pháp Môn Tịnh Độ (1973)

–         Tại Sao Ta Phải Tu (1974)

Dân Xã Tùng Thư

–         Chánh trị thường thức (1956)

–         Tinh thần cán bộ (1971)

–         Lập trường Dân Xã Đảng (1971)

 

MUC LUC CHƯƠNG 1 | | CHƯƠNG 2 | | CHƯƠNG 3 | | CHƯƠNG 4 | | CHƯƠNG 5 | | CHƯƠNG 6 | | CHƯƠNG 7 | | CHƯƠNG 8 | | CHƯƠNG 9 | | CHƯƠNG 10 | | CHƯƠNG 11 | | CHƯƠNG 12 |

CHƯƠNG 13 | | CHƯƠNG 14 | | CHƯƠNG 15 | | CHƯƠNG 16 | | CHƯƠNG 17|

 

 

[TV. PGHH]

Categories: Đức Huỳnh Giáo Chủ | Leave a comment

Ðức Huỳnh Giáo Chủ

Ðức Huỳnh Giáo Chủ
Vương Kim

Ðức Phật, Hoàng thiên lịnh giáng trần,

Huỳnh gia chuyển kiếp lập đời Tân.

Giáo truyền đạo Thích dìu sanh chúng,

Chủ ý chọn người vẹn Tứ ân.

(Hình Tác giả: Vương Kim Phan Bá Cầm)

Phần I:

HÀNH TRẠNG

 

Thiên thứ nhứt

Giai đoạn ra đời mở đạo

 

Chương I: Bối cảnh xã hội

Chương II:Thân thế

Chương III: Ra Tế độ

Chương IV: Đăng Sơn

Chương V: Sứ Mạng

Chương VI: Lưu Cư

Chương VII: Vận Ðộng Ðộc Lập

Chương VIII: Tổ Chức Hàng Ngũ

Chương IX: Chuẩn Bị Ðấu Tranh

 

Thiên thứ hai

Giai đoạn hoạt động đấu tranh

 

Chương X: Dấn Thân

 

Thiên thứ ba

Giai Ðoạn Vắng Mặt

 

Chương XI: Lý Do Thọ Nạn

Chương XII: Còn Hay Mất

 

Phần II:

SỰ NGHIỆP

 

Thiên thứ tư

Sự Nghiệp Về Mặt Ðạo

Tôn Phái Phật Giáo Hòa Hảo

 

Chương XIII: Học Phật

Chương XIV: Tu Nhân

 

Thiên thứ năm

Sự Nghiệp Về Mặt Ðời:

Công nghiệp cách mạng

 

Chương XV: Quân Sự.

Bộ Ðội Nguyễn Trung Trực

 

Chương XVI: Chánh Trị

Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng

 

Cùng một tác giả:

Long Hoa xuất bản

–         Tận Thế và Hội Long Hoa (1952)

–         Đức Phật Thầy Tây An (1953) (hiệp với Đào Hưng)

–         Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo (1954) (hiệp với Thanh Sĩ)

–         Ðời Hạ Ngươn (1960)

–         Đời người dướI ánh sáng Đạo Phật (1960)

–         Bửu Sơn Kỳ Hương (1966)

–         Hành sử Đạo Nhân (1970)

–         Tu Hiền (1972)

–         Đời Thượng Ngươn (1973)

–         Pháp Môn Tịnh Độ (1973)

–         Tại Sao Ta Phải Tu (1974)

Dân Xã Tùng Thư

–         Chánh trị thường thức (1956)

–         Tinh thần cán bộ (1971)

–         Lập trường Dân Xã Đảng (1971)

 

MUC LUC CHƯƠNG 1 | | CHƯƠNG 2 | | CHƯƠNG 3 | | CHƯƠNG 4 | | CHƯƠNG 5 | | CHƯƠNG 6 | | CHƯƠNG 7 | | CHƯƠNG 8 | | CHƯƠNG 9 | | CHƯƠNG 10 | | CHƯƠNG 11 | | CHƯƠNG 12 |

CHƯƠNG 13 | | CHƯƠNG 14 | | CHƯƠNG 15 | | CHƯƠNG 16 | | CHƯƠNG 17|

 

 

[TV. PGHH]

Categories: Tin-Tức Thế-Giới | Leave a comment

Ðức Huỳnh Giáo Chủ

Ðức Huỳnh Giáo Chủ
Vương Kim

Ðức Phật, Hoàng thiên lịnh giáng trần,

Huỳnh gia chuyển kiếp lập đời Tân.

Giáo truyền đạo Thích dìu sanh chúng,

Chủ ý chọn người vẹn Tứ ân.

(Hình Tác giả: Vương Kim Phan Bá Cầm)

Phần I:

HÀNH TRẠNG

 

Thiên thứ nhứt

Giai đoạn ra đời mở đạo

 

Chương I: Bối cảnh xã hội

Chương II:Thân thế

Chương III: Ra Tế độ

Chương IV: Đăng Sơn

Chương V: Sứ Mạng

Chương VI: Lưu Cư

Chương VII: Vận Ðộng Ðộc Lập

Chương VIII: Tổ Chức Hàng Ngũ

Chương IX: Chuẩn Bị Ðấu Tranh

 

Thiên thứ hai

Giai đoạn hoạt động đấu tranh

 

Chương X: Dấn Thân

 

Thiên thứ ba

Giai Ðoạn Vắng Mặt

 

Chương XI: Lý Do Thọ Nạn

Chương XII: Còn Hay Mất

 

Phần II:

SỰ NGHIỆP

 

Thiên thứ tư

Sự Nghiệp Về Mặt Ðạo

Tôn Phái Phật Giáo Hòa Hảo

 

Chương XIII: Học Phật

Chương XIV: Tu Nhân

 

Thiên thứ năm

Sự Nghiệp Về Mặt Ðời:

Công nghiệp cách mạng

 

Chương XV: Quân Sự.

Bộ Ðội Nguyễn Trung Trực

 

Chương XVI: Chánh Trị

Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng

 

Cùng một tác giả:

Long Hoa xuất bản

–         Tận Thế và Hội Long Hoa (1952)

–         Đức Phật Thầy Tây An (1953) (hiệp với Đào Hưng)

–         Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo (1954) (hiệp với Thanh Sĩ)

–         Ðời Hạ Ngươn (1960)

–         Đời người dướI ánh sáng Đạo Phật (1960)

–         Bửu Sơn Kỳ Hương (1966)

–         Hành sử Đạo Nhân (1970)

–         Tu Hiền (1972)

–         Đời Thượng Ngươn (1973)

–         Pháp Môn Tịnh Độ (1973)

–         Tại Sao Ta Phải Tu (1974)

Dân Xã Tùng Thư

–         Chánh trị thường thức (1956)

–         Tinh thần cán bộ (1971)

–         Lập trường Dân Xã Đảng (1971)

 

MUC LUC CHƯƠNG 1 | | CHƯƠNG 2 | | CHƯƠNG 3 | | CHƯƠNG 4 | | CHƯƠNG 5 | | CHƯƠNG 6 | | CHƯƠNG 7 | | CHƯƠNG 8 | | CHƯƠNG 9 | | CHƯƠNG 10 | | CHƯƠNG 11 | | CHƯƠNG 12 |

CHƯƠNG 13 | | CHƯƠNG 14 | | CHƯƠNG 15 | | CHƯƠNG 16 | | CHƯƠNG 17|

 

 

Categories: Lịch Sử PG Hòa Hảo | Leave a comment

Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ và Phật Giáo Thời Ðại

…… … .  . .  .  . Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ

và Phật Giáo Thời Ðại

Lê Hiếu Liêm

 

 

Chương một: Dẫn nhập Việt Nam và Phật Giáo đầu thế kỷ hai mươi.

 

Đầu thế kỷ 20, tư tưởng Nho Giáo, thống trị độc tôn đất nước từ Thời Hồ Quý Ly, nhà Lê và nhà Nguyễn suốt 400 năm, hoàn toàn sụp đổ. Tư tưởng Phật Giáo, ngự trị vinh quang trong thời đại Lý Trần từ thế kỷ thứ 11 đến cuối thế kỷ 14, suy đồi tận gốc. Tư tưởng Tây Phương và tôn giáo của nó, Thiên Chúa Giáo La Mã, bị đại đa số trí thức và nhân dân coi như sản phẩm và công cụ của chế độ Thuộc Địa và thực dân Pháp nên vẫn không được chấp nhận. Ý thức hệ Cộng Sản cũng như các tư tưởng mới khác chưa ra đời. Cả một khoảng trống tư tưởng, cũng có nghĩa là một khoảng trống tôn giáo và chính trị, to lớn bao trùm trên một nước Việt Nam bị nô lệ, bóc lột, áp bức, lạc hậu và nghèo đói. Nhưng đây cũng là môi trường lý tưởng cho sự ra đời của những tư tưởng mới, những tôn giáo mới, những chính đảng mới và những phong trào mới: Phong trào Đông Du và Việt Nam Duy Tân Hội của Phan Bội Châu từ năm 1904, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can và các nhà Nho tiến bộ năm 1907, tư tưởng dân quyền và dân chủ của Phan Chu Trinh suốt hai mươi năm (1905-1925), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội cùng năm, Việt Nam Quang Phục Hội năm 1912, cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ và ở Huế năm 1916 của Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung, vua Duy Tân…, phong trào Hội Kín ở miền Nam năm 1913-1916 lan rộng khắp Lục Tỉnh và cuộc tấn công Sài Gòn năm 1916. Các hoạt động này đã liên tục diễn ra từ đầu thế kỷ 20 đến cuối đệ nhất thế chiến.

Tuy nhiên mãi đến đầu thập njiên 20 Việt Nam mới thật sự thức dậy với sự ra đời Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng Chí Hội và Tân Việt Cách Mạng Đảng năm 1925, Đạo Cao Đài năm 1926, Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1927, Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và sự ra đời của Đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1930 và phong trào Sô Viết Nghệ Tỉnh 1930-1931.

 

Trong thời gian sôi động này, từ 1925 trở đi, Phật Giáo cũng đã thức dậy. Từ năm 1923, thiền sư Khánh Hòa và thiền sư Thiện Chiếu đã thành lập, tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh, Hội Lục Hòa Liên Hiệp với mục đích vận động thành lập một Hội Phật Giáo Việt Nam toàn quốc để chấn hưng Phật Giáo. Thiền sư Thiện Chiếu, khác hẳn tất cả tăng sĩ Phật Giáo đương thời, là một tăng sĩ có tân học. Ông đã đi ra Trung và Bắc vận động thống nhất Phật Giáo năm 1927 nhưng bất thành.

Năm 1928 thiền sư Khánh Hòa xây dựng Thích Học Đường và Phật Học Thư Xã tại Chùa Linh Sơn, Sài Gòn và năm 1929 Ông cho ấn hành tạp chí Viên Âm, tập san Phật Học đầu tiên bằng quốc ngữ tại Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Xoài Hột, Mỹ Tho. Cùng thời, thiền sư Thiện Chiếu xuất bản một tạp chí Phật Học nhắm vào giới thanh niên trí thức lấy tên là Phật Hòa Tân Thanh Niên, đặt tòa soạn tại chùa Chúc Thọ ở Gia Định.

 

Năm 1931 thiền sư Khánh Hòa cùng nhiều tăng sĩ và cư sĩ thành lập Hội Phật Học đầu tiên tại Việt Nam, lấy tên là Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học và thiền sư Từ Phong được mời làm Chánh Hội Trưởng. Hội ra tờ Từ Bi Âm năm 1932. Thiền sư Khánh Hòa, cùng người cộng sự thân tín là thiền sư Thiện Chiếu đã đóng vai trò tiền phong khai mở phong trào chấn hưng Phật Giáo và hiện đại hóa Phật Giáo, chuyển động sâu rộng lịch sử Phật Giáo và lịch sử Việt Nam trong suốt 65 năm qua.

Tại miền Trung, thiền sư Giác Tiên mở Phật Học Đường  tại chùa Trúc Lâm năm 1929 và ủy thác cho đệ tử là bác sĩ Lê Đình Thám thành lập Hội An Nam Phật Học năm 1932. Hội quy tụ đông đảo những danh tăng và cư sĩ trí thức tại miền Trung. Cư sĩ Lê Đình Thám được bầu làm Hội Trưởng và vua Bảo Đại được mời làm Hội Trưởng Danh Dự. Hội ra tạp chí Phật Học Viên Âm năm 1933. Năm 1934, thiền sư Giác Tiên, cư sĩ Lê Đình Thám… đã thành lập Trường An Nam Phật Học, trong đó có mở cấp Đại Học Phật Giáo. Đặc biệt hơn nữa là Hội đã phát động phong trào “Chỉnh Lý Tăng Già” rất quyết liệt để loại trừ ra khỏi tăng già những thành phần phạm giới, bất xứng. Chính nhờ những nổ lực cấp tiến này mà Phật Giáo miền Trung đã đóng được một vai trò quan trọng trong những thập niên sau đó.

Năm 1934 các thiền sư Trí Hải, Tâm Ứng, Tâm Bảo cùng với giới cư sĩ trí thức tên tuổi tại Hà Nội như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Dương Bá Trạc, Trần Văn Giáp, Nguyễn Năng Quốc, Nguyễn Hữu Kha, Bùi Kỷ, Lê Dư… thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Hội, bầu cư sĩ Nguyễn Năng Quốc làm hội trưởng và suy tôn thiền sư Thanh Hanh làm Thiền Gia Pháp Chủ. Đặc biệt là trong buổi lễ suy tôn Pháp Chủ này, cư sĩ Trần Trọng Kim đã thuyết pháp về đề tài; “Thập Nhị Nhân Duyên”. Hội ra tạp chí Đuốc Tuệ năm 1935 và phát triển mạnh mẽ khắp miền Bắc (Nguyễn Lang, Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, q 3, t 51-173).

Đặc tính của cả ba Hội Phật Học tại ba miền là vai trò nổi bật của giới trí thức cư sĩ, là thuần túy Phật học và sinh hoạt Phật sự. Thời điểm 1925-1945 là thời điểm chuẩn bị trong kiên nhẫn và thầm lặng. Các hội Phật Học đã làm đúng chức năng và vai trò lịch của mình, một cách khiêm tốn, từ đống gạch vụn đổ nát của nền Phật học và Phật Giáo Việt nam trong thời Thực Dân Pháp thống trị.

Trong thời kỳ này xuất hiện những con người đặc biệt, xuất sắc và những tư tưởng mạnh mẽ, quyết liệt, trong Phật Giáo cũng như ngoài Phật Giáo. Từ đầu thập niên 30, tư tưởng Phật Hộc của Thích Thiện Chiếu đã là những quả bom chấn động. Và năm 1939 Huỳnh Phú Sổ xuất hiện làm một cuộc cách mạng tôn giáo, cải cách toàn bộ và triệt để Phật Giáo chưa từng có trong hai ngàn năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Miền Nam, một vùng đất lạ lùng và kỳ diệu…

 

An Hòa Tự

Phan Chu Trinh từ Pháp trở về Sài Gòn năm 1925, đất nước bùng lên những làn sóng tư tưởng dân quyền và dân chủ. Ông khẳng định phải tìm nguyên nhân mất nước trong sự mất đạo đức, mất luân lý, trong bài diễn thuyết Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây, và ông cũng khẳng định chế độ quân chủ chuyên chế là nguyên nhân chính làm mất nước trong bài thuyết giảng Quân Trị Chủ Nghĩa và Dân Trị Chủ Nghĩa tại Sài Gòn năm 1925. Ông mất năm sau đó và đám tang ông cùng với cuộc vận động ân xá nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã khơi bùng phong trào yêu nước và yêu tự do dân chủ trên toàn quốc, đặc biệt là trong giới thanh niên.

Nhưng dữ dội, bốc lửa và sấm sét trong tư tưởng yêu nước chống thực dân cũng như tư tưởng tự do dân chủ, trong thời này, chỉ có Nguyễn An Ninh là đi xa nhất, quyết liệt nhất. Là một thanh niên miền Nam, Ông đi du học ở Pháp và trở về nước với bằng cử nhân Luật. Lợi dụng quy chế thuộc địa của Nam Kỳ, nơi mà báo chí bằng tiếng Pháp được tự do, không bị kiểm duyệt, Ông ra tờ La Cloche fèlèe (Tiếng Chuông Rè) từ năm 1923 đến năm 1926. Ông tự xưng tờ báo của Ông là “cơ quan tuyên truyền tư tưởng Pháp”, lấy tư tưởng của kẻ xâm lăng để đập những nhát búa tạ vào chế độ Thực Dân, đồng thời tờ báo cũng tự nhận là “cơ quan chuẩn bị cho tương lai dân tộc”. Thật là độc đáo và tuyệt vời.

Ngoài việc phê bình kịch liệt, thẳng tay chính sách và chế độ thực dân, Ông cổ võ cho việc đào tạo một tầng lớp thanh niên Việt Nam tân học, có văn hóa, có lý tưởng, có chí khí, có năng lực và có tổ chức và Ông tuyệt đối tin vào sức mạnh và vào tương lai của nhân dân Việt Nam. Ông chủ trương một nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc và trở về lịch sử dân tộc để tìm niềm tin và sức mạnh. Ông hô hào, khi chỉ mới ngoài 20 tuổi, “Chẳng những phải duy trì những giấc mộng vĩ đại, mà còn phải tổ chức thành một nhóm quan trọng để chuẩn bị cho tương lai”. Không những tư tưởng táo bạo, độc đáo, mới lạ, kiến thức của Ông cũng rất uyên bác. Khi Thống Đốc Nam Kỳ tuyên bố: “Xứ này không cần trí thức”. Ông đã viết bài trả lời bốc lửa: “… Những thảm khổ của chúng ta ngày nay, còn gì nữa, đúng là do tổ tiên của chúng ta đã sờ mó vào cây kiến thức. Hạng trí thức đã làm đảo lộn thế giới, làm hư hỏng hạnh phúc của thế giới. Hãy nguyền rủa tên tuổi của Prométhé, kẻ đã lấy trộm chút lửa của Trời. Hãy nguyền rủa con người đã bày ra cái ná cao su cho trẻ con bắn đá vào trán ông khổng lồ… Trí Tuệ, đó là cái tai hại. Trí tuệ, đó là con rắn cuốn quanh thân cây đã làm cho chúng ta vĩnh viễn mất cõi thiên đường… Nói đến vai trò giáo dục, vai trò văn minh của các ông chủ xứ Đông Dương này, thưa các ông, điều ấy làm ta mỉm cười… Người ta đã quỳ lụy bái phục những vị “đem ánh sáng tới”, những vị “làm điều kỳ diệu ở Ấu Châu”… Cái gì kỳ diệu? Thực ra cái kỳ diệu đó là, chỉ trong một thời gian ngắn thôi, người ta đã có thể làm cho trình độ trí thức của người Nam đã thấp đi lại càng rơi vào chỗ cực kỳ dốt nát. Cái kỳ diệu đó là người ta đã có thể, trong một thời gian ngắn như thế, xô đẩy một dân tộc có tư tưởng dân chủ, ngã nhào vào tình trạng nô lệ hoàn toàn“. (Trần Văn Giàu, Sự Phát Triển Của Tư Tưởng ở Việt Nam Từ Thế Kỷ 19 đến Cách Mạng Tháng Tám, q2, t 311).

Nguyễn An Ninh cũng là một trong những nhà trí thức tân học đầu tiên nghiên cứu Phật Học và hoàn thành một tác phẩm Phật Học quan trọng, cuốn “Phê Bình Phật Giáo”. Sau thời kỳ hoạt động sôi nổi từ 1923 đến 1926, Nguyễn An Ninh bị ở tù trong thời gian 1926-1927, sau đó Ông về nghiên cứu Phật Giáo. Trên bàn làm việc của Ông, có một cái chuông, một cái mõ, Ông cạo trọc đầu và đi chân không. Ông nghiên cứu Phật Giáo qua tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức và các hoạt động Phật Giáo trong nước. Cuốn Phê Bình Phật Giáo xuất bản năm 1937 là kết quả của sự nghiên cứu này. Tựa đề của cuốn sách, 70 năm sau cũng không có ai dám viết một cuốn sách Phật Học có tựa đề thách thức và can đảm như vậy. Mục đích và phương pháp luận còn mới lạ, táo bạo hơn, đó là “so sánh Phật Giáo với thời đại của nó để chỉ chỗ hay, chỗ đúng hơn của nó đối với các thuyết khác và so sánh Phật Giáo với thời đại này để chỉ sai lầm của Phật Giáo“. Tác phẩm này được giới trí thức, giới chính trị cũng như giới Phật Giáo chú ý đặc biệt.

Nhưng không gây sóng gió và tranh luận suốt nhiều năm trời như những tác phẩm của Thích Thiện Chiếu. Đối với Tăng, Ni, Phật Tử thập niên 30, những tư tưởng Phật Học của Thích Thiện Chiếu là những tiếng sét ngang tai. Ngày nay đọc lại, chắc chắn quý vị tăng sĩ, cư sĩ và Phật Tử cũng không khỏi giựt mình, chấn động và suy nghĩ. Những tư tưởng này, được viết từ thập niên 30, ngày nay, cuối thập niên 90, vẫn còn mới, còn táo bạo, còn chứa đầy sức nặng của đá tảng và sức nổ của sấm sét. Thích Thiện Chiếu là tinh hoa sáng chói của Phật Giáo trong thập niên 20, 30. Ông đã đi tiền phong trong mọi lãnh vực chấn hưng và hiện đại hóa Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ 20 này.

Ta phải đứng trên một đỉnh núi cao, mới hy vọng nhìn thấy những cái gì chưa ai nhìn thấy, những cái gì nằm khuất sau dãy núi cao. đó có thể là những dãy núi cao hơn, hay là một đại dương mênh mông hay là một bình nguyên rực rỡ. Thích Thiện Chiếu là một ngọn núi cao của Phật học và Phật Giáo Việt Nam trước đệ nhị thế chiến. Ta hãy đứng trên đỉnh núi cao ngất, hùng tráng này để nhìn rõ một đỉnh núi cao ngất, hùng vĩ khác, là Cư sĩ, Bồ Tát, Giáo Chủ Huỳnh Phù Sổ.

 

|Muc Luc| |Ch.1| |Ch.2| |Ch.3| |Ch.4| |Ch.5| |Ch.6| |Ch.7| |Ch.8| |Ch.9| |Ch.10|TK|

[BHH430] [PGHH] [THƯ VIỆN PGHH]

Categories: Tin-Tức Thế-Giới | Leave a comment

Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ và Phật Giáo Thời Ðại

…… … .  . .  .  . Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ

và Phật Giáo Thời Ðại

Lê Hiếu Liêm

 

 

Chương một: Dẫn nhập Việt Nam và Phật Giáo đầu thế kỷ hai mươi.

 

Đầu thế kỷ 20, tư tưởng Nho Giáo, thống trị độc tôn đất nước từ Thời Hồ Quý Ly, nhà Lê và nhà Nguyễn suốt 400 năm, hoàn toàn sụp đổ. Tư tưởng Phật Giáo, ngự trị vinh quang trong thời đại Lý Trần từ thế kỷ thứ 11 đến cuối thế kỷ 14, suy đồi tận gốc. Tư tưởng Tây Phương và tôn giáo của nó, Thiên Chúa Giáo La Mã, bị đại đa số trí thức và nhân dân coi như sản phẩm và công cụ của chế độ Thuộc Địa và thực dân Pháp nên vẫn không được chấp nhận. Ý thức hệ Cộng Sản cũng như các tư tưởng mới khác chưa ra đời. Cả một khoảng trống tư tưởng, cũng có nghĩa là một khoảng trống tôn giáo và chính trị, to lớn bao trùm trên một nước Việt Nam bị nô lệ, bóc lột, áp bức, lạc hậu và nghèo đói. Nhưng đây cũng là môi trường lý tưởng cho sự ra đời của những tư tưởng mới, những tôn giáo mới, những chính đảng mới và những phong trào mới: Phong trào Đông Du và Việt Nam Duy Tân Hội của Phan Bội Châu từ năm 1904, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can và các nhà Nho tiến bộ năm 1907, tư tưởng dân quyền và dân chủ của Phan Chu Trinh suốt hai mươi năm (1905-1925), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội cùng năm, Việt Nam Quang Phục Hội năm 1912, cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ và ở Huế năm 1916 của Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung, vua Duy Tân…, phong trào Hội Kín ở miền Nam năm 1913-1916 lan rộng khắp Lục Tỉnh và cuộc tấn công Sài Gòn năm 1916. Các hoạt động này đã liên tục diễn ra từ đầu thế kỷ 20 đến cuối đệ nhất thế chiến.

Tuy nhiên mãi đến đầu thập njiên 20 Việt Nam mới thật sự thức dậy với sự ra đời Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng Chí Hội và Tân Việt Cách Mạng Đảng năm 1925, Đạo Cao Đài năm 1926, Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1927, Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và sự ra đời của Đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1930 và phong trào Sô Viết Nghệ Tỉnh 1930-1931.

 

Trong thời gian sôi động này, từ 1925 trở đi, Phật Giáo cũng đã thức dậy. Từ năm 1923, thiền sư Khánh Hòa và thiền sư Thiện Chiếu đã thành lập, tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh, Hội Lục Hòa Liên Hiệp với mục đích vận động thành lập một Hội Phật Giáo Việt Nam toàn quốc để chấn hưng Phật Giáo. Thiền sư Thiện Chiếu, khác hẳn tất cả tăng sĩ Phật Giáo đương thời, là một tăng sĩ có tân học. Ông đã đi ra Trung và Bắc vận động thống nhất Phật Giáo năm 1927 nhưng bất thành.

Năm 1928 thiền sư Khánh Hòa xây dựng Thích Học Đường và Phật Học Thư Xã tại Chùa Linh Sơn, Sài Gòn và năm 1929 Ông cho ấn hành tạp chí Viên Âm, tập san Phật Học đầu tiên bằng quốc ngữ tại Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Xoài Hột, Mỹ Tho. Cùng thời, thiền sư Thiện Chiếu xuất bản một tạp chí Phật Học nhắm vào giới thanh niên trí thức lấy tên là Phật Hòa Tân Thanh Niên, đặt tòa soạn tại chùa Chúc Thọ ở Gia Định.

 

Năm 1931 thiền sư Khánh Hòa cùng nhiều tăng sĩ và cư sĩ thành lập Hội Phật Học đầu tiên tại Việt Nam, lấy tên là Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học và thiền sư Từ Phong được mời làm Chánh Hội Trưởng. Hội ra tờ Từ Bi Âm năm 1932. Thiền sư Khánh Hòa, cùng người cộng sự thân tín là thiền sư Thiện Chiếu đã đóng vai trò tiền phong khai mở phong trào chấn hưng Phật Giáo và hiện đại hóa Phật Giáo, chuyển động sâu rộng lịch sử Phật Giáo và lịch sử Việt Nam trong suốt 65 năm qua.

Tại miền Trung, thiền sư Giác Tiên mở Phật Học Đường  tại chùa Trúc Lâm năm 1929 và ủy thác cho đệ tử là bác sĩ Lê Đình Thám thành lập Hội An Nam Phật Học năm 1932. Hội quy tụ đông đảo những danh tăng và cư sĩ trí thức tại miền Trung. Cư sĩ Lê Đình Thám được bầu làm Hội Trưởng và vua Bảo Đại được mời làm Hội Trưởng Danh Dự. Hội ra tạp chí Phật Học Viên Âm năm 1933. Năm 1934, thiền sư Giác Tiên, cư sĩ Lê Đình Thám… đã thành lập Trường An Nam Phật Học, trong đó có mở cấp Đại Học Phật Giáo. Đặc biệt hơn nữa là Hội đã phát động phong trào “Chỉnh Lý Tăng Già” rất quyết liệt để loại trừ ra khỏi tăng già những thành phần phạm giới, bất xứng. Chính nhờ những nổ lực cấp tiến này mà Phật Giáo miền Trung đã đóng được một vai trò quan trọng trong những thập niên sau đó.

Năm 1934 các thiền sư Trí Hải, Tâm Ứng, Tâm Bảo cùng với giới cư sĩ trí thức tên tuổi tại Hà Nội như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Dương Bá Trạc, Trần Văn Giáp, Nguyễn Năng Quốc, Nguyễn Hữu Kha, Bùi Kỷ, Lê Dư… thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Hội, bầu cư sĩ Nguyễn Năng Quốc làm hội trưởng và suy tôn thiền sư Thanh Hanh làm Thiền Gia Pháp Chủ. Đặc biệt là trong buổi lễ suy tôn Pháp Chủ này, cư sĩ Trần Trọng Kim đã thuyết pháp về đề tài; “Thập Nhị Nhân Duyên”. Hội ra tạp chí Đuốc Tuệ năm 1935 và phát triển mạnh mẽ khắp miền Bắc (Nguyễn Lang, Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, q 3, t 51-173).

Đặc tính của cả ba Hội Phật Học tại ba miền là vai trò nổi bật của giới trí thức cư sĩ, là thuần túy Phật học và sinh hoạt Phật sự. Thời điểm 1925-1945 là thời điểm chuẩn bị trong kiên nhẫn và thầm lặng. Các hội Phật Học đã làm đúng chức năng và vai trò lịch của mình, một cách khiêm tốn, từ đống gạch vụn đổ nát của nền Phật học và Phật Giáo Việt nam trong thời Thực Dân Pháp thống trị.

Trong thời kỳ này xuất hiện những con người đặc biệt, xuất sắc và những tư tưởng mạnh mẽ, quyết liệt, trong Phật Giáo cũng như ngoài Phật Giáo. Từ đầu thập niên 30, tư tưởng Phật Hộc của Thích Thiện Chiếu đã là những quả bom chấn động. Và năm 1939 Huỳnh Phú Sổ xuất hiện làm một cuộc cách mạng tôn giáo, cải cách toàn bộ và triệt để Phật Giáo chưa từng có trong hai ngàn năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Miền Nam, một vùng đất lạ lùng và kỳ diệu…

 

An Hòa Tự

Phan Chu Trinh từ Pháp trở về Sài Gòn năm 1925, đất nước bùng lên những làn sóng tư tưởng dân quyền và dân chủ. Ông khẳng định phải tìm nguyên nhân mất nước trong sự mất đạo đức, mất luân lý, trong bài diễn thuyết Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây, và ông cũng khẳng định chế độ quân chủ chuyên chế là nguyên nhân chính làm mất nước trong bài thuyết giảng Quân Trị Chủ Nghĩa và Dân Trị Chủ Nghĩa tại Sài Gòn năm 1925. Ông mất năm sau đó và đám tang ông cùng với cuộc vận động ân xá nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã khơi bùng phong trào yêu nước và yêu tự do dân chủ trên toàn quốc, đặc biệt là trong giới thanh niên.

Nhưng dữ dội, bốc lửa và sấm sét trong tư tưởng yêu nước chống thực dân cũng như tư tưởng tự do dân chủ, trong thời này, chỉ có Nguyễn An Ninh là đi xa nhất, quyết liệt nhất. Là một thanh niên miền Nam, Ông đi du học ở Pháp và trở về nước với bằng cử nhân Luật. Lợi dụng quy chế thuộc địa của Nam Kỳ, nơi mà báo chí bằng tiếng Pháp được tự do, không bị kiểm duyệt, Ông ra tờ La Cloche fèlèe (Tiếng Chuông Rè) từ năm 1923 đến năm 1926. Ông tự xưng tờ báo của Ông là “cơ quan tuyên truyền tư tưởng Pháp”, lấy tư tưởng của kẻ xâm lăng để đập những nhát búa tạ vào chế độ Thực Dân, đồng thời tờ báo cũng tự nhận là “cơ quan chuẩn bị cho tương lai dân tộc”. Thật là độc đáo và tuyệt vời.

Ngoài việc phê bình kịch liệt, thẳng tay chính sách và chế độ thực dân, Ông cổ võ cho việc đào tạo một tầng lớp thanh niên Việt Nam tân học, có văn hóa, có lý tưởng, có chí khí, có năng lực và có tổ chức và Ông tuyệt đối tin vào sức mạnh và vào tương lai của nhân dân Việt Nam. Ông chủ trương một nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc và trở về lịch sử dân tộc để tìm niềm tin và sức mạnh. Ông hô hào, khi chỉ mới ngoài 20 tuổi, “Chẳng những phải duy trì những giấc mộng vĩ đại, mà còn phải tổ chức thành một nhóm quan trọng để chuẩn bị cho tương lai”. Không những tư tưởng táo bạo, độc đáo, mới lạ, kiến thức của Ông cũng rất uyên bác. Khi Thống Đốc Nam Kỳ tuyên bố: “Xứ này không cần trí thức”. Ông đã viết bài trả lời bốc lửa: “… Những thảm khổ của chúng ta ngày nay, còn gì nữa, đúng là do tổ tiên của chúng ta đã sờ mó vào cây kiến thức. Hạng trí thức đã làm đảo lộn thế giới, làm hư hỏng hạnh phúc của thế giới. Hãy nguyền rủa tên tuổi của Prométhé, kẻ đã lấy trộm chút lửa của Trời. Hãy nguyền rủa con người đã bày ra cái ná cao su cho trẻ con bắn đá vào trán ông khổng lồ… Trí Tuệ, đó là cái tai hại. Trí tuệ, đó là con rắn cuốn quanh thân cây đã làm cho chúng ta vĩnh viễn mất cõi thiên đường… Nói đến vai trò giáo dục, vai trò văn minh của các ông chủ xứ Đông Dương này, thưa các ông, điều ấy làm ta mỉm cười… Người ta đã quỳ lụy bái phục những vị “đem ánh sáng tới”, những vị “làm điều kỳ diệu ở Ấu Châu”… Cái gì kỳ diệu? Thực ra cái kỳ diệu đó là, chỉ trong một thời gian ngắn thôi, người ta đã có thể làm cho trình độ trí thức của người Nam đã thấp đi lại càng rơi vào chỗ cực kỳ dốt nát. Cái kỳ diệu đó là người ta đã có thể, trong một thời gian ngắn như thế, xô đẩy một dân tộc có tư tưởng dân chủ, ngã nhào vào tình trạng nô lệ hoàn toàn“. (Trần Văn Giàu, Sự Phát Triển Của Tư Tưởng ở Việt Nam Từ Thế Kỷ 19 đến Cách Mạng Tháng Tám, q2, t 311).

Nguyễn An Ninh cũng là một trong những nhà trí thức tân học đầu tiên nghiên cứu Phật Học và hoàn thành một tác phẩm Phật Học quan trọng, cuốn “Phê Bình Phật Giáo”. Sau thời kỳ hoạt động sôi nổi từ 1923 đến 1926, Nguyễn An Ninh bị ở tù trong thời gian 1926-1927, sau đó Ông về nghiên cứu Phật Giáo. Trên bàn làm việc của Ông, có một cái chuông, một cái mõ, Ông cạo trọc đầu và đi chân không. Ông nghiên cứu Phật Giáo qua tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức và các hoạt động Phật Giáo trong nước. Cuốn Phê Bình Phật Giáo xuất bản năm 1937 là kết quả của sự nghiên cứu này. Tựa đề của cuốn sách, 70 năm sau cũng không có ai dám viết một cuốn sách Phật Học có tựa đề thách thức và can đảm như vậy. Mục đích và phương pháp luận còn mới lạ, táo bạo hơn, đó là “so sánh Phật Giáo với thời đại của nó để chỉ chỗ hay, chỗ đúng hơn của nó đối với các thuyết khác và so sánh Phật Giáo với thời đại này để chỉ sai lầm của Phật Giáo“. Tác phẩm này được giới trí thức, giới chính trị cũng như giới Phật Giáo chú ý đặc biệt.

Nhưng không gây sóng gió và tranh luận suốt nhiều năm trời như những tác phẩm của Thích Thiện Chiếu. Đối với Tăng, Ni, Phật Tử thập niên 30, những tư tưởng Phật Học của Thích Thiện Chiếu là những tiếng sét ngang tai. Ngày nay đọc lại, chắc chắn quý vị tăng sĩ, cư sĩ và Phật Tử cũng không khỏi giựt mình, chấn động và suy nghĩ. Những tư tưởng này, được viết từ thập niên 30, ngày nay, cuối thập niên 90, vẫn còn mới, còn táo bạo, còn chứa đầy sức nặng của đá tảng và sức nổ của sấm sét. Thích Thiện Chiếu là tinh hoa sáng chói của Phật Giáo trong thập niên 20, 30. Ông đã đi tiền phong trong mọi lãnh vực chấn hưng và hiện đại hóa Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ 20 này.

Ta phải đứng trên một đỉnh núi cao, mới hy vọng nhìn thấy những cái gì chưa ai nhìn thấy, những cái gì nằm khuất sau dãy núi cao. đó có thể là những dãy núi cao hơn, hay là một đại dương mênh mông hay là một bình nguyên rực rỡ. Thích Thiện Chiếu là một ngọn núi cao của Phật học và Phật Giáo Việt Nam trước đệ nhị thế chiến. Ta hãy đứng trên đỉnh núi cao ngất, hùng tráng này để nhìn rõ một đỉnh núi cao ngất, hùng vĩ khác, là Cư sĩ, Bồ Tát, Giáo Chủ Huỳnh Phù Sổ.

 

|Muc Luc| |Ch.1| |Ch.2| |Ch.3| |Ch.4| |Ch.5| |Ch.6| |Ch.7| |Ch.8| |Ch.9| |Ch.10|TK|

[BHH430] [PGHH] [THƯ VIỆN PGHH]

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Con trai Tổng thống Trump gửi thông điệp xúc động tới cha mình

Con trai Tổng thống Trump gửi thông điệp xúc động tới cha mình

Lục Du | DKN 11 giờ tới 606 lượt xem
Eric Trump, con trai của Tổng thống Mỹ Donald Trump (ảnh: Screenshot/Yahoo News)
Eric Trump, con trai thứ hai của Tổng thống Trump, đã có bài phát biểu tại Hội nghị Quốc gia của Đảng Cộng hòa vào thứ Ba (25/8), kết thúc bài phát biểu Eric đã gửi tới cha mình một số thông điệp cá nhân, theo The BL.

Trong bài phát biểu của mình, ông Eric nói về bốn năm cầm quyền đầu tiên của Tổng thống Trump và cách cha của ông đấu tranh vì “những người lao động bị lãng quên ở nước Mỹ”.

“Phong trào của chúng tôi tuân theo mô hình của rất nhiều người đi trước chúng tôi”, Eric Trump nói. “Đầu tiên, chúng tôi không được để ý. Sau đó chúng tôi bị cười nhạo. Sau đó họ tấn công chúng tôi. Và sau đó, cùng nhau, chúng tôi đã giành chiến thắng”.

Nói về những đảng viên Đảng Dân chủ thiên tả, Eric nói rằng những người đó “muốn phá hủy những tượng đài của tổ tiên chúng ta. Họ muốn phủ nhận lá cờ của chúng ta. Đốt cháy những ngôi sao và sọc đại diện cho lòng yêu nước và Giấc mơ Mỹ [trên lá cờ]”.

“Họ muốn không tôn trọng quốc ca của chúng ta bằng cách quỳ gối [xin lỗi tội phạm] trong khi các lực lượng vũ trang của chúng ta đã hy sinh mạng sống hàng ngày để bảo vệ tự do của chúng ta. Họ không muốn Tuyên bố Trung thành trong trường học của chúng ta. Họ không muốn “Một quốc gia dưới Chúa”, ông Eric nói, đề cập tới việc nhiều nghị sĩ thuộc đảng Dân chủ quỳ gối xin lỗi sau khi một cảnh sát ngộ sát một tội phạm ma túy tên Floyd ít tháng trước.

“Họ tin rằng con đường duy nhất phía trước là xóa bỏ lịch sử và quên đi quá khứ”, ông Eric nói thêm.

“Đảng Dân chủ muốn bôi nhọ, phá hủy và không tôn trọng cơ quan thực thi pháp luật của chúng ta”, và “Đảng Dân chủ muốn có một nước Mỹ nơi suy nghĩ và quan điểm của bạn bị kiểm duyệt khi những suy nghĩ đó không phù hợp với ý kiến của họ”, ông Eric tiếp tục chỉ trích phe Dân chủ.

“Đây là cuộc chiến mà chúng ta đang tham gia ngay bây giờ. Và đó là một cuộc chiến mà chỉ có cha tôi mới có thể chiến thắng”, ông Eric về cuộc chiến với những đảng viên thiên tả của đảng Dân chủ và cha của ông, Tổng thống Trump.

Nói với cha mình, ông Eric đề cập đến người chủ Robert, người em trai của tổng thống Trump mới qua đời hôm 15/8.

“Cha, hãy làm cho chú Robert tự hào. Hãy bắt đầu bốn năm nữa”.

Eric kết thúc bài phát biểu của mình với những lời cảm động dành cho cha, “Con yêu bố rất nhiều. Chúa phù hộ cho bố và Chúa phù hộ cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”.

Categories: Tin Hoa Kỳ | Leave a comment

Thành tựu lớn nhất đời người là khoan dung

Thành tựu lớn nhất đời người là khoan dung

Ngọc Mai | DKN 9 giờ tới 289 lượt xem
sự khoan dung
Ảnh minh họa: Shutterstock.
Có câu nói như thế này: Dung lượng trái tim của một người rộng lớn như thế nào thì thế giới của họ rộng lớn như thế.

Victor Hugo cũng từng nói “Có điều to lớn hơn đại dương, đó chính là bầu trời; có điều to lớn hơn bầu trời, đó chính là nội tâm của một người” (Nguyên văn: There is one spectacle grander than the sea, that is the sky; there is one spectacle grander than the sky, that is the interior of the soul)

Thành tựu lớn nhất của đời người là lòng khoan dung.

Khoan dung không phải sự yếu hèn, không phải nhu nhược mà là không nhớ lỗi lầm của người, thấy người kém không kiêu ngạo, thấy người giỏi không tự ti, thấy người gặp khó khăn thì có thể bù đắp chỗ thiếu sót và giúp họ phát huy ưu điểm.

Chuyện chậu lan của vị hòa thượng

Lão hòa thượng trồng một chậu hoa lan xinh đẹp. Hoa lan cũng nhờ vào sự chăm sóc của ông mà lớn lên khỏe mạnh và thanh tú. Một lần, ông phải đi ra ngoài có việc một thời gian, ông liền giao chậu lan lại cho tiểu hòa thượng nhờ chăm sóc.

Một hôm, tiểu hòa thượng sau khi tưới nước cho hoa liền đặt chậu lan ở bệ cửa sổ rồi ra ngoài làm việc. Thế rồi mưa to xối xuống, gió to làm chậu lan rơi xuống mặt đất vỡ tan. Khi tiểu hòa thượng trở về thấy chậu lan chỉ còn cành lá gãy rập, héo úa dưới đất. Cậu vừa đau lòng vừa lo sợ sư phụ sẽ quở trách.

Sư phụ và đồ đệ
Ảnh minh họa: Shutterstock.

Khi vị sư già trở lại, tiểu hòa thượng đã chuẩn bị tinh thần bị phạt. Nhưng sư phụ cậu chỉ cười cười, không trách mắng chút nào. Tiểu hòa thượng bất ngờ: “Sư phụ, người không tức giận sao? Sao lại không trách mắng con?”.

Lão sư cười nhạt một tiếng: “Ta trồng hoa lan không phải vì để tức giận”.

Chỉ một câu nói đơn giản nhưng lại thể hiện một người có tấm lòng bao dung rộng lượng và cởi mở với cuộc đời.

Thế giới xung quanh chính là phản ánh nội tâm của bạn

Lão hòa thượng trồng hoa không phải để nổi giận. Tương tự như vậy, chúng ta học tập để không phải để tức giận. Chúng ta làm việc không phải để để tức giận. Chúng ta yêu thương không phải để tức giận. Chúng ta sống không phải để tức giận.

Nếu bạn ôm giữ hận thù, cuộc sống xung quanh đều là những điều không vừa mắt.

Nếu bạn ôm giữ lòng biết ơn, thế gian khắp nơi đều là lòng cảm ân.

Nếu dung lượng tâm của bạn lớn lên, sức chịu đựng của bạn cũng lớn lên, những điều người khác không vừa mắt, đối với bạn cũng có thể xem rất nhẹ nhàng.

Dù bạn không thể chọn những điều sẽ xảy ra với bản thân, bạn vẫn có thể lựa chọn thái độ đối với những khó khăn trong đời người. Bạn có thể ôm giữ oán hận hoặc thái độ tiêu cực trong nghịch cảnh; bạn cũng có thể rèn luyện nội tâm vững vàng trước những sóng gió. Chỉ là bạn sẽ chọn con đường nào?

khoan dung
Ảnh minh họa: Shutterstock.

Đời người 8, 9 phần là không như ý, những chuyện muốn gì được nấy, mọi việc đều toại nguyện là rất ít.

Người khoan dung bề ngoài dù xinh đẹp hay tầm thường, ở bên trong cũng là nội tâm quảng đại, tấm lòng rộng mở, có thể dung chứa vạn vật, độ lượng với mọi người.

Người khoan dung thường suy nghĩ cho người khác, chân thành không kiêu ngạo, lòng dạ thoáng đãng. Họ mang khí chất khiêm nhường của người quân tử “người quân tử trong sáng vô tư, kẻ tiểu nhân thường mang ưu sầu”.

Làm thế nào mới có thể nuôi dưỡng lòng bao dung?

Thật dễ dàng chỉ trích thiếu sót người khác, oán trách lỗi lầm của người, phàn nàn và phán xét về những quyết định sai của họ. Những hành động tiêu cực ấy, chắc chắn sẽ không thể mang lại tác dụng tích cực, vì nó dựa trên quan điểm của bản thân để phán xét sự việc, là xuất phát từ “Vị tư” (Vì mình). Hãy thử đổi góc độ, đứng từ “Vị tha” (vì người khác) mà xét vấn đề, thực sự xuất phát điểm “muốn tốt cho người khác” chứ không phải “muốn người khác phù hợp với quan điểm của mình”.

Khi một người không phàn nàn về người khác, người ấy đã tránh xa khỏi oán hận. Khi một người không ghét bỏ người khác, người ấy đã tránh xa khỏi thù hận. Người có đạo đức cao thượng luôn biết cách phân biệt Chính – tà và lánh xa thù hận. Chỉ khi lánh xa thù hận, người ấy mới nảy sinh lòng khoan dung.

Một người khoan dung chân chính phát xuất ra ánh hào quang của từ bi và tường hòa. Hào quang ấy chiếu sáng những người xung quanh và chính bản thân họ. Khi một người thực sự khoan dung từ nội tâm, không oán không hận, người ấy mới có thể cảm nhận được hạnh phúc chân chính. Họ sẽ được ban phúc lành và con đường sẽ rộng mở trước mặt họ.

Ngược lại, một người tâm đầy thù hận sẽ không bao giờ thực sự thiện với người khác. Ngọn lửa hận thù sẽ che mờ lý trí của họ. Nó cũng giống một thanh gươm tẩm độc, không những làm người khác bị thương, mà còn làm hại chính chủ nhân của nó.

Ngọc Mai
Tham khảo Sound of Hope, Chánh Kiến

Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Sự kiện ông Tập bị tố là ‘trùm xã hội đen’ làm rúng động chính trường ĐCSTQ

Sự kiện ông Tập bị tố là ‘trùm xã hội đen’ làm rúng động chính trường ĐCSTQ

Hương Thảo | DKN 8 giờ tới 2,349 lượt xem
Sự kiện ông Tập bị tố là 'trùm xã hội đen' làm rúng động chính trường ĐCSTQ
(Ảnh chụp màn hình/Asianews.it)
Có phân tích chỉ ra, những lời chỉ trích ĐCSTQ lại đến từ một nhân vật trọng yếu trong đảng như vậy sẽ càng có lực sát thương mạnh mẽ đối với giới chức cấp cao ĐCSTQ, theo Reuters.

Bà Thái Hà (Cai He), cựu giáo sư trường Đảng trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), vì lên tiếng chỉ trích chính quyền ĐCSTQ là “thây ma chính trị” và chỉ đích danh Tổng Bí thư ĐCSTQ Tập Cận Bình là “trùm băng đảng xã hội đen”, đã bị trường Đảng trung ương khai trừ khỏi đảng và hủy đãi ngộ hưu trí đối với bà.

Vụ việc đã làm rúng động Trung Nam Hải, khiến trường Đảng Trung ương mau chóng ra chỉ lệnh “tiếp thu bài học giáo huấn” và yêu cầu tất cả các thành viên của trường phải bảo trì sự nhất trí cao độ với “Tập hạt nhân” của Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ. Có phân tích chỉ ra rằng, những lời chỉ trích ĐCSTQ lại đến từ một nhân vật trọng yếu trong đảng như vậy càng có lực sát thương mạnh mẽ đối với giới chức cấp cao ĐCSTQ.

Trang web chính thức của trường đảng Trung ương ĐCSTQ ngày 19/8 đã đăng tải thông tin rằng, sáng ngày 17/8, trường Đảng Trung ương ĐCSTQ (Học viện Hành chính Quốc gia) đã triệu tập cuộc họp với người đứng đầu và người lãnh đạo tổ chức đảng của các đơn vị trực thuộc để báo cáo vụ việc của bà Thái Hà. Ông Hà Nghị Đình, Phó hiệu trưởng trường Đảng trung ương, được coi là một trong những “quân sư” quan trọng nhất của ông Tập Cận Bình, đã yêu cầu hệ thống trường đảng phải “rút ra bài học giáo huấn sâu sắc” từ vụ việc của cựu giáo sư Thái Hà, “tất cả phải cùng bảo trì sự nhất trí cao độ về mặt tư tưởng, hành vi và chính trị với Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ mà trong đó lấy ông Tập Cận Bình làm nhân vật trung tâm”, …

Ông Hà cũng nhấn mạnh rằng có 4 điều “quyết không cho phép” đối với toàn bộ giáo viên của trường, bao gồm việc phổ biến các ý kiến ​​trái với lý luận và phương châm đường lối chính sách của đảng, công khai phát biểu các ngôn luận trái với quyết sách của trung ương, bịa đặt và lan truyền các tin đồn chính trị cũng như ngôn luận bôi nhọ hình ảnh của đảng và đất nước, nghiêm cấm tham gia vào các tổ chức phi pháp và các nhóm có hoạt động phi pháp.

Được biết, hiệu trưởng hiện tại của trường Đảng trung ương ĐCSTQ là ông Trần Hy, bạn học cùng trường đại học Thanh Hoa của ông Tập Cận Bình. Ông Trần hiện là Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSTQ khóa 19, Bộ trưởng Bộ Tổ chức Trung ương, Bí thư Ban Bí thư Trung ương .

Trường Đảng trung ương là trường đào tạo cán bộ lãnh đạo và cán bộ lý luận dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương, đây cũng là cơ sở hình thái ý thức của ĐCSTQ, được thành lập năm 1933 với tên đầy đủ là trường Đảng Trung ương ĐCSTQ (Học viện Hành chính Quốc gia).

Cựu lãnh đạo Mao Trạch Đông đã tự tay viết khẩu hiệu của trường. Ông Giang Trạch Dân từng tự tay khắc tên trường, các lãnh đạo cấp cao ĐCSTQ từng nhậm chức hiệu trưởng trường đảng còn có ông Hồ Cẩm Đào, Tăng Khánh Hồng, Tập Cận Bình, Lưu Vân Sơn…

Các kênh “truyền thông đỏ” thường ví trường Đảng trung ương là cái nôi của các quan chức cấp cao ĐCSTQ. Năm 2015, ông Tập Cận Bình trong lúc phát biểu đã nhấn mạnh rằng “trường đảng mang họ Đảng”.

Bà Thái Hà, nhân vật chính của sự kiện chống lại ông Tập gần đây, sinh năm 1952, trước khi nghỉ hưu từng là giáo sư Khoa Nghiên cứu Giảng dạy xây dựng Đảng của trường Đảng Trung ương. Có thông tin rằng phương hướng nghiên cứu chủ yếu của bà là hình thái ý thức chính trị của đảng và xây dựng đảng cầm quyền.

Tháng 6 năm nay, một đoạn băng ghi âm bài phát biểu của bà Thái Hà tại buổi họp mặt của “Hồng nhị đại” ở Hoa Kỳ được lan truyền rộng rãi trên mạng. Đoạn ghi âm cho biết, Hội nghị toàn thể lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ khóa 18 đã đưa ra vấn đề sửa đổi hiến pháp nhằm bãi bỏ chế độ nhiệm kỳ của chủ tịch nước, theo trình tự nội bộ đảng điều này vốn không hợp pháp, nhưng không một ủy viên Trung ương nào dám đưa ra ý kiến khác, “Bản thân đảng này đã là một thây ma chính trị”.

Đoạn ghi âm cũng nói, rằng việc không hỗ trợ thực thể kinh tế, nói xấu trung ương, không trung thực với đảng đều cấu thành nên cáo buộc “hoàn toàn không có mùi vị pháp trị cũng như cảm giác của một đảng phái chính trị thực thụ vì dân” đối với ĐCSTQ, đồng thời Tổng bí thư ĐCSTQ Tập Cận Bình đã “trở thành trùm băng đảng xã hội đen”.

Trường Đảng trung ương ĐCSTQ ngày 17/8 đã ra thông cáo trên Internet rằng họ đã khai trừ đảng tịch của bà Thái và hủy bỏ đãi ngộ hưu trí của bà, đồng thời cáo buộc phát biểu của bà có “vấn đề chính trị nghiêm trọng và gây tổn hại đến thanh danh của đất nước”, “tính chất cực kỳ ác liệt, tình tiết cực kỳ nghiêm trọng”.

Vào ngày 18/8, Baidu Trung Quốc cho biết công cụ tìm kiếm “Sơ yếu lý lịch của bà Thái Hà” đã bị chặn.

Ông Hồ Tích Tiến, Tổng biên tập tờ “Thời báo Hoàn cầu” – trang truyền thông của ĐCSTQ, đã mô tả trên Weibo của mình rằng: Thái Hà – người được đông đảo cư dân mạng coi là phần tử trí thức thuộc phe tự do trong trường đảng đã đưa ra những ngôn luận chống phá chính quyền có tính đại biểu không thua kém giới nhân sĩ bất đồng chính kiến ​​cấp tiến nhất ở Trung Quốc.

Trong một cuộc phỏng vấn với truyền thông nước ngoài, bà Thái Hà nhắc lại quan điểm của bà về tương lai của ĐCSTQ: “Thứ nhất, Tập Cận Bình buộc phải từ chức – chỉ có cách thay thế ông Tập thì mới có thể từ từ hóa giải trạng thái khủng bố áp lực cao trong nội bộ đảng. Thứ hai, cái lớp vỏ ‘Đảng Cộng sản’ này phải được loại bỏ” . “ĐCSTQ là một thây ma chính trị. Từ chính quan điểm của bản thân cái đảng này mà nói, nó không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử chuyển đổi mô hình của Trung Quốc. Vì vậy, nó buộc phải hạ đài…”.

Lý thuyết “thay người” của bà Thái Hà do vậy bị nghi ngờ là của phe cải cách nhằm duy trì sự sinh tồn của đảng. Tuy nhiên, có không ít quan điểm cho rằng sự kiện Thái Hà cũng đã đánh dấu khúc nhạc dạo đầu cho sự sụp đổ của ĐCSTQ, và ông Tập Cận Bình, người đứng đầu ĐCSTQ hiện nay đã bị cô lập hoàn toàn.

Hãng truyền thông Anh BBC chỉ ra rằng sự kiện Thái Hà đã rúng động đến Trung Nam Hải, một trong những lý do quan trọng là bởi bà Thái Hà là nhân vật hạch tâm trong ĐCSTQ.

Phân tích này cho rằng ngoài việc bà Thái là thế hệ đỏ thứ hai chính thống, sự việc không chỉ cho thấy thế hệ đỏ thứ hai của ĐCSTQ đang chia rẽ, mà còn bởi vì bà là một nhân vật nòng cốt: trường Đảng Trung ương là cái nôi của các cán bộ ĐCSTQ, các lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ bao gồm Mao Trạch Đông, Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình đều đã từng kiêm nhiệm hiệu trưởng trường đảng, và bà Thái Hà quanh năm đều dạy học ở đây. Những lời chỉ trích ĐCSTQ lại đến từ một nhân vật trọng yếu trong đảng như vậy càng có lực sát thương lớn mạnh đối với giới chức lãnh đạo cấp cao của ĐCSTQ.

Theo Secret China
Hương Thảo biên dịch

Categories: Tin-Tức Thế-Giới | Leave a comment

Blog at WordPress.com.