Daily Archives: August 26, 2020

Ðức Huỳnh Giáo Chủ

Ðức Huỳnh Giáo Chủ
Vương Kim

Ðức Phật, Hoàng thiên lịnh giáng trần,

Huỳnh gia chuyển kiếp lập đời Tân.

Giáo truyền đạo Thích dìu sanh chúng,

Chủ ý chọn người vẹn Tứ ân.

(Hình Tác giả: Vương Kim Phan Bá Cầm)

Phần I:

HÀNH TRẠNG

 

Thiên thứ nhứt

Giai đoạn ra đời mở đạo

 

Chương I: Bối cảnh xã hội

Chương II:Thân thế

Chương III: Ra Tế độ

Chương IV: Đăng Sơn

Chương V: Sứ Mạng

Chương VI: Lưu Cư

Chương VII: Vận Ðộng Ðộc Lập

Chương VIII: Tổ Chức Hàng Ngũ

Chương IX: Chuẩn Bị Ðấu Tranh

 

Thiên thứ hai

Giai đoạn hoạt động đấu tranh

 

Chương X: Dấn Thân

 

Thiên thứ ba

Giai Ðoạn Vắng Mặt

 

Chương XI: Lý Do Thọ Nạn

Chương XII: Còn Hay Mất

 

Phần II:

SỰ NGHIỆP

 

Thiên thứ tư

Sự Nghiệp Về Mặt Ðạo

Tôn Phái Phật Giáo Hòa Hảo

 

Chương XIII: Học Phật

Chương XIV: Tu Nhân

 

Thiên thứ năm

Sự Nghiệp Về Mặt Ðời:

Công nghiệp cách mạng

 

Chương XV: Quân Sự.

Bộ Ðội Nguyễn Trung Trực

 

Chương XVI: Chánh Trị

Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng

 

Cùng một tác giả:

Long Hoa xuất bản

–         Tận Thế và Hội Long Hoa (1952)

–         Đức Phật Thầy Tây An (1953) (hiệp với Đào Hưng)

–         Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo (1954) (hiệp với Thanh Sĩ)

–         Ðời Hạ Ngươn (1960)

–         Đời người dướI ánh sáng Đạo Phật (1960)

–         Bửu Sơn Kỳ Hương (1966)

–         Hành sử Đạo Nhân (1970)

–         Tu Hiền (1972)

–         Đời Thượng Ngươn (1973)

–         Pháp Môn Tịnh Độ (1973)

–         Tại Sao Ta Phải Tu (1974)

Dân Xã Tùng Thư

–         Chánh trị thường thức (1956)

–         Tinh thần cán bộ (1971)

–         Lập trường Dân Xã Đảng (1971)

 

MUC LUC CHƯƠNG 1 | | CHƯƠNG 2 | | CHƯƠNG 3 | | CHƯƠNG 4 | | CHƯƠNG 5 | | CHƯƠNG 6 | | CHƯƠNG 7 | | CHƯƠNG 8 | | CHƯƠNG 9 | | CHƯƠNG 10 | | CHƯƠNG 11 | | CHƯƠNG 12 |

CHƯƠNG 13 | | CHƯƠNG 14 | | CHƯƠNG 15 | | CHƯƠNG 16 | | CHƯƠNG 17|

 

 

[TV. PGHH]

Advertisement
Categories: Đức Huỳnh Giáo Chủ | Leave a comment

Ðức Huỳnh Giáo Chủ

Ðức Huỳnh Giáo Chủ
Vương Kim

Ðức Phật, Hoàng thiên lịnh giáng trần,

Huỳnh gia chuyển kiếp lập đời Tân.

Giáo truyền đạo Thích dìu sanh chúng,

Chủ ý chọn người vẹn Tứ ân.

(Hình Tác giả: Vương Kim Phan Bá Cầm)

Phần I:

HÀNH TRẠNG

 

Thiên thứ nhứt

Giai đoạn ra đời mở đạo

 

Chương I: Bối cảnh xã hội

Chương II:Thân thế

Chương III: Ra Tế độ

Chương IV: Đăng Sơn

Chương V: Sứ Mạng

Chương VI: Lưu Cư

Chương VII: Vận Ðộng Ðộc Lập

Chương VIII: Tổ Chức Hàng Ngũ

Chương IX: Chuẩn Bị Ðấu Tranh

 

Thiên thứ hai

Giai đoạn hoạt động đấu tranh

 

Chương X: Dấn Thân

 

Thiên thứ ba

Giai Ðoạn Vắng Mặt

 

Chương XI: Lý Do Thọ Nạn

Chương XII: Còn Hay Mất

 

Phần II:

SỰ NGHIỆP

 

Thiên thứ tư

Sự Nghiệp Về Mặt Ðạo

Tôn Phái Phật Giáo Hòa Hảo

 

Chương XIII: Học Phật

Chương XIV: Tu Nhân

 

Thiên thứ năm

Sự Nghiệp Về Mặt Ðời:

Công nghiệp cách mạng

 

Chương XV: Quân Sự.

Bộ Ðội Nguyễn Trung Trực

 

Chương XVI: Chánh Trị

Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng

 

Cùng một tác giả:

Long Hoa xuất bản

–         Tận Thế và Hội Long Hoa (1952)

–         Đức Phật Thầy Tây An (1953) (hiệp với Đào Hưng)

–         Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo (1954) (hiệp với Thanh Sĩ)

–         Ðời Hạ Ngươn (1960)

–         Đời người dướI ánh sáng Đạo Phật (1960)

–         Bửu Sơn Kỳ Hương (1966)

–         Hành sử Đạo Nhân (1970)

–         Tu Hiền (1972)

–         Đời Thượng Ngươn (1973)

–         Pháp Môn Tịnh Độ (1973)

–         Tại Sao Ta Phải Tu (1974)

Dân Xã Tùng Thư

–         Chánh trị thường thức (1956)

–         Tinh thần cán bộ (1971)

–         Lập trường Dân Xã Đảng (1971)

 

MUC LUC CHƯƠNG 1 | | CHƯƠNG 2 | | CHƯƠNG 3 | | CHƯƠNG 4 | | CHƯƠNG 5 | | CHƯƠNG 6 | | CHƯƠNG 7 | | CHƯƠNG 8 | | CHƯƠNG 9 | | CHƯƠNG 10 | | CHƯƠNG 11 | | CHƯƠNG 12 |

CHƯƠNG 13 | | CHƯƠNG 14 | | CHƯƠNG 15 | | CHƯƠNG 16 | | CHƯƠNG 17|

 

 

[TV. PGHH]

Categories: Tin-Tức Thế-Giới | Leave a comment

Ðức Huỳnh Giáo Chủ

Ðức Huỳnh Giáo Chủ
Vương Kim

Ðức Phật, Hoàng thiên lịnh giáng trần,

Huỳnh gia chuyển kiếp lập đời Tân.

Giáo truyền đạo Thích dìu sanh chúng,

Chủ ý chọn người vẹn Tứ ân.

(Hình Tác giả: Vương Kim Phan Bá Cầm)

Phần I:

HÀNH TRẠNG

 

Thiên thứ nhứt

Giai đoạn ra đời mở đạo

 

Chương I: Bối cảnh xã hội

Chương II:Thân thế

Chương III: Ra Tế độ

Chương IV: Đăng Sơn

Chương V: Sứ Mạng

Chương VI: Lưu Cư

Chương VII: Vận Ðộng Ðộc Lập

Chương VIII: Tổ Chức Hàng Ngũ

Chương IX: Chuẩn Bị Ðấu Tranh

 

Thiên thứ hai

Giai đoạn hoạt động đấu tranh

 

Chương X: Dấn Thân

 

Thiên thứ ba

Giai Ðoạn Vắng Mặt

 

Chương XI: Lý Do Thọ Nạn

Chương XII: Còn Hay Mất

 

Phần II:

SỰ NGHIỆP

 

Thiên thứ tư

Sự Nghiệp Về Mặt Ðạo

Tôn Phái Phật Giáo Hòa Hảo

 

Chương XIII: Học Phật

Chương XIV: Tu Nhân

 

Thiên thứ năm

Sự Nghiệp Về Mặt Ðời:

Công nghiệp cách mạng

 

Chương XV: Quân Sự.

Bộ Ðội Nguyễn Trung Trực

 

Chương XVI: Chánh Trị

Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng

 

Cùng một tác giả:

Long Hoa xuất bản

–         Tận Thế và Hội Long Hoa (1952)

–         Đức Phật Thầy Tây An (1953) (hiệp với Đào Hưng)

–         Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo (1954) (hiệp với Thanh Sĩ)

–         Ðời Hạ Ngươn (1960)

–         Đời người dướI ánh sáng Đạo Phật (1960)

–         Bửu Sơn Kỳ Hương (1966)

–         Hành sử Đạo Nhân (1970)

–         Tu Hiền (1972)

–         Đời Thượng Ngươn (1973)

–         Pháp Môn Tịnh Độ (1973)

–         Tại Sao Ta Phải Tu (1974)

Dân Xã Tùng Thư

–         Chánh trị thường thức (1956)

–         Tinh thần cán bộ (1971)

–         Lập trường Dân Xã Đảng (1971)

 

MUC LUC CHƯƠNG 1 | | CHƯƠNG 2 | | CHƯƠNG 3 | | CHƯƠNG 4 | | CHƯƠNG 5 | | CHƯƠNG 6 | | CHƯƠNG 7 | | CHƯƠNG 8 | | CHƯƠNG 9 | | CHƯƠNG 10 | | CHƯƠNG 11 | | CHƯƠNG 12 |

CHƯƠNG 13 | | CHƯƠNG 14 | | CHƯƠNG 15 | | CHƯƠNG 16 | | CHƯƠNG 17|

 

 

Categories: Lịch Sử PG Hòa Hảo | Leave a comment

Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ và Phật Giáo Thời Ðại

…… … .  . .  .  . Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ

và Phật Giáo Thời Ðại

Lê Hiếu Liêm

 

 

Chương một: Dẫn nhập Việt Nam và Phật Giáo đầu thế kỷ hai mươi.

 

Đầu thế kỷ 20, tư tưởng Nho Giáo, thống trị độc tôn đất nước từ Thời Hồ Quý Ly, nhà Lê và nhà Nguyễn suốt 400 năm, hoàn toàn sụp đổ. Tư tưởng Phật Giáo, ngự trị vinh quang trong thời đại Lý Trần từ thế kỷ thứ 11 đến cuối thế kỷ 14, suy đồi tận gốc. Tư tưởng Tây Phương và tôn giáo của nó, Thiên Chúa Giáo La Mã, bị đại đa số trí thức và nhân dân coi như sản phẩm và công cụ của chế độ Thuộc Địa và thực dân Pháp nên vẫn không được chấp nhận. Ý thức hệ Cộng Sản cũng như các tư tưởng mới khác chưa ra đời. Cả một khoảng trống tư tưởng, cũng có nghĩa là một khoảng trống tôn giáo và chính trị, to lớn bao trùm trên một nước Việt Nam bị nô lệ, bóc lột, áp bức, lạc hậu và nghèo đói. Nhưng đây cũng là môi trường lý tưởng cho sự ra đời của những tư tưởng mới, những tôn giáo mới, những chính đảng mới và những phong trào mới: Phong trào Đông Du và Việt Nam Duy Tân Hội của Phan Bội Châu từ năm 1904, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can và các nhà Nho tiến bộ năm 1907, tư tưởng dân quyền và dân chủ của Phan Chu Trinh suốt hai mươi năm (1905-1925), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội cùng năm, Việt Nam Quang Phục Hội năm 1912, cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ và ở Huế năm 1916 của Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung, vua Duy Tân…, phong trào Hội Kín ở miền Nam năm 1913-1916 lan rộng khắp Lục Tỉnh và cuộc tấn công Sài Gòn năm 1916. Các hoạt động này đã liên tục diễn ra từ đầu thế kỷ 20 đến cuối đệ nhất thế chiến.

Tuy nhiên mãi đến đầu thập njiên 20 Việt Nam mới thật sự thức dậy với sự ra đời Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng Chí Hội và Tân Việt Cách Mạng Đảng năm 1925, Đạo Cao Đài năm 1926, Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1927, Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và sự ra đời của Đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1930 và phong trào Sô Viết Nghệ Tỉnh 1930-1931.

 

Trong thời gian sôi động này, từ 1925 trở đi, Phật Giáo cũng đã thức dậy. Từ năm 1923, thiền sư Khánh Hòa và thiền sư Thiện Chiếu đã thành lập, tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh, Hội Lục Hòa Liên Hiệp với mục đích vận động thành lập một Hội Phật Giáo Việt Nam toàn quốc để chấn hưng Phật Giáo. Thiền sư Thiện Chiếu, khác hẳn tất cả tăng sĩ Phật Giáo đương thời, là một tăng sĩ có tân học. Ông đã đi ra Trung và Bắc vận động thống nhất Phật Giáo năm 1927 nhưng bất thành.

Năm 1928 thiền sư Khánh Hòa xây dựng Thích Học Đường và Phật Học Thư Xã tại Chùa Linh Sơn, Sài Gòn và năm 1929 Ông cho ấn hành tạp chí Viên Âm, tập san Phật Học đầu tiên bằng quốc ngữ tại Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Xoài Hột, Mỹ Tho. Cùng thời, thiền sư Thiện Chiếu xuất bản một tạp chí Phật Học nhắm vào giới thanh niên trí thức lấy tên là Phật Hòa Tân Thanh Niên, đặt tòa soạn tại chùa Chúc Thọ ở Gia Định.

 

Năm 1931 thiền sư Khánh Hòa cùng nhiều tăng sĩ và cư sĩ thành lập Hội Phật Học đầu tiên tại Việt Nam, lấy tên là Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học và thiền sư Từ Phong được mời làm Chánh Hội Trưởng. Hội ra tờ Từ Bi Âm năm 1932. Thiền sư Khánh Hòa, cùng người cộng sự thân tín là thiền sư Thiện Chiếu đã đóng vai trò tiền phong khai mở phong trào chấn hưng Phật Giáo và hiện đại hóa Phật Giáo, chuyển động sâu rộng lịch sử Phật Giáo và lịch sử Việt Nam trong suốt 65 năm qua.

Tại miền Trung, thiền sư Giác Tiên mở Phật Học Đường  tại chùa Trúc Lâm năm 1929 và ủy thác cho đệ tử là bác sĩ Lê Đình Thám thành lập Hội An Nam Phật Học năm 1932. Hội quy tụ đông đảo những danh tăng và cư sĩ trí thức tại miền Trung. Cư sĩ Lê Đình Thám được bầu làm Hội Trưởng và vua Bảo Đại được mời làm Hội Trưởng Danh Dự. Hội ra tạp chí Phật Học Viên Âm năm 1933. Năm 1934, thiền sư Giác Tiên, cư sĩ Lê Đình Thám… đã thành lập Trường An Nam Phật Học, trong đó có mở cấp Đại Học Phật Giáo. Đặc biệt hơn nữa là Hội đã phát động phong trào “Chỉnh Lý Tăng Già” rất quyết liệt để loại trừ ra khỏi tăng già những thành phần phạm giới, bất xứng. Chính nhờ những nổ lực cấp tiến này mà Phật Giáo miền Trung đã đóng được một vai trò quan trọng trong những thập niên sau đó.

Năm 1934 các thiền sư Trí Hải, Tâm Ứng, Tâm Bảo cùng với giới cư sĩ trí thức tên tuổi tại Hà Nội như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Dương Bá Trạc, Trần Văn Giáp, Nguyễn Năng Quốc, Nguyễn Hữu Kha, Bùi Kỷ, Lê Dư… thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Hội, bầu cư sĩ Nguyễn Năng Quốc làm hội trưởng và suy tôn thiền sư Thanh Hanh làm Thiền Gia Pháp Chủ. Đặc biệt là trong buổi lễ suy tôn Pháp Chủ này, cư sĩ Trần Trọng Kim đã thuyết pháp về đề tài; “Thập Nhị Nhân Duyên”. Hội ra tạp chí Đuốc Tuệ năm 1935 và phát triển mạnh mẽ khắp miền Bắc (Nguyễn Lang, Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, q 3, t 51-173).

Đặc tính của cả ba Hội Phật Học tại ba miền là vai trò nổi bật của giới trí thức cư sĩ, là thuần túy Phật học và sinh hoạt Phật sự. Thời điểm 1925-1945 là thời điểm chuẩn bị trong kiên nhẫn và thầm lặng. Các hội Phật Học đã làm đúng chức năng và vai trò lịch của mình, một cách khiêm tốn, từ đống gạch vụn đổ nát của nền Phật học và Phật Giáo Việt nam trong thời Thực Dân Pháp thống trị.

Trong thời kỳ này xuất hiện những con người đặc biệt, xuất sắc và những tư tưởng mạnh mẽ, quyết liệt, trong Phật Giáo cũng như ngoài Phật Giáo. Từ đầu thập niên 30, tư tưởng Phật Hộc của Thích Thiện Chiếu đã là những quả bom chấn động. Và năm 1939 Huỳnh Phú Sổ xuất hiện làm một cuộc cách mạng tôn giáo, cải cách toàn bộ và triệt để Phật Giáo chưa từng có trong hai ngàn năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Miền Nam, một vùng đất lạ lùng và kỳ diệu…

 

An Hòa Tự

Phan Chu Trinh từ Pháp trở về Sài Gòn năm 1925, đất nước bùng lên những làn sóng tư tưởng dân quyền và dân chủ. Ông khẳng định phải tìm nguyên nhân mất nước trong sự mất đạo đức, mất luân lý, trong bài diễn thuyết Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây, và ông cũng khẳng định chế độ quân chủ chuyên chế là nguyên nhân chính làm mất nước trong bài thuyết giảng Quân Trị Chủ Nghĩa và Dân Trị Chủ Nghĩa tại Sài Gòn năm 1925. Ông mất năm sau đó và đám tang ông cùng với cuộc vận động ân xá nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã khơi bùng phong trào yêu nước và yêu tự do dân chủ trên toàn quốc, đặc biệt là trong giới thanh niên.

Nhưng dữ dội, bốc lửa và sấm sét trong tư tưởng yêu nước chống thực dân cũng như tư tưởng tự do dân chủ, trong thời này, chỉ có Nguyễn An Ninh là đi xa nhất, quyết liệt nhất. Là một thanh niên miền Nam, Ông đi du học ở Pháp và trở về nước với bằng cử nhân Luật. Lợi dụng quy chế thuộc địa của Nam Kỳ, nơi mà báo chí bằng tiếng Pháp được tự do, không bị kiểm duyệt, Ông ra tờ La Cloche fèlèe (Tiếng Chuông Rè) từ năm 1923 đến năm 1926. Ông tự xưng tờ báo của Ông là “cơ quan tuyên truyền tư tưởng Pháp”, lấy tư tưởng của kẻ xâm lăng để đập những nhát búa tạ vào chế độ Thực Dân, đồng thời tờ báo cũng tự nhận là “cơ quan chuẩn bị cho tương lai dân tộc”. Thật là độc đáo và tuyệt vời.

Ngoài việc phê bình kịch liệt, thẳng tay chính sách và chế độ thực dân, Ông cổ võ cho việc đào tạo một tầng lớp thanh niên Việt Nam tân học, có văn hóa, có lý tưởng, có chí khí, có năng lực và có tổ chức và Ông tuyệt đối tin vào sức mạnh và vào tương lai của nhân dân Việt Nam. Ông chủ trương một nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc và trở về lịch sử dân tộc để tìm niềm tin và sức mạnh. Ông hô hào, khi chỉ mới ngoài 20 tuổi, “Chẳng những phải duy trì những giấc mộng vĩ đại, mà còn phải tổ chức thành một nhóm quan trọng để chuẩn bị cho tương lai”. Không những tư tưởng táo bạo, độc đáo, mới lạ, kiến thức của Ông cũng rất uyên bác. Khi Thống Đốc Nam Kỳ tuyên bố: “Xứ này không cần trí thức”. Ông đã viết bài trả lời bốc lửa: “… Những thảm khổ của chúng ta ngày nay, còn gì nữa, đúng là do tổ tiên của chúng ta đã sờ mó vào cây kiến thức. Hạng trí thức đã làm đảo lộn thế giới, làm hư hỏng hạnh phúc của thế giới. Hãy nguyền rủa tên tuổi của Prométhé, kẻ đã lấy trộm chút lửa của Trời. Hãy nguyền rủa con người đã bày ra cái ná cao su cho trẻ con bắn đá vào trán ông khổng lồ… Trí Tuệ, đó là cái tai hại. Trí tuệ, đó là con rắn cuốn quanh thân cây đã làm cho chúng ta vĩnh viễn mất cõi thiên đường… Nói đến vai trò giáo dục, vai trò văn minh của các ông chủ xứ Đông Dương này, thưa các ông, điều ấy làm ta mỉm cười… Người ta đã quỳ lụy bái phục những vị “đem ánh sáng tới”, những vị “làm điều kỳ diệu ở Ấu Châu”… Cái gì kỳ diệu? Thực ra cái kỳ diệu đó là, chỉ trong một thời gian ngắn thôi, người ta đã có thể làm cho trình độ trí thức của người Nam đã thấp đi lại càng rơi vào chỗ cực kỳ dốt nát. Cái kỳ diệu đó là người ta đã có thể, trong một thời gian ngắn như thế, xô đẩy một dân tộc có tư tưởng dân chủ, ngã nhào vào tình trạng nô lệ hoàn toàn“. (Trần Văn Giàu, Sự Phát Triển Của Tư Tưởng ở Việt Nam Từ Thế Kỷ 19 đến Cách Mạng Tháng Tám, q2, t 311).

Nguyễn An Ninh cũng là một trong những nhà trí thức tân học đầu tiên nghiên cứu Phật Học và hoàn thành một tác phẩm Phật Học quan trọng, cuốn “Phê Bình Phật Giáo”. Sau thời kỳ hoạt động sôi nổi từ 1923 đến 1926, Nguyễn An Ninh bị ở tù trong thời gian 1926-1927, sau đó Ông về nghiên cứu Phật Giáo. Trên bàn làm việc của Ông, có một cái chuông, một cái mõ, Ông cạo trọc đầu và đi chân không. Ông nghiên cứu Phật Giáo qua tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức và các hoạt động Phật Giáo trong nước. Cuốn Phê Bình Phật Giáo xuất bản năm 1937 là kết quả của sự nghiên cứu này. Tựa đề của cuốn sách, 70 năm sau cũng không có ai dám viết một cuốn sách Phật Học có tựa đề thách thức và can đảm như vậy. Mục đích và phương pháp luận còn mới lạ, táo bạo hơn, đó là “so sánh Phật Giáo với thời đại của nó để chỉ chỗ hay, chỗ đúng hơn của nó đối với các thuyết khác và so sánh Phật Giáo với thời đại này để chỉ sai lầm của Phật Giáo“. Tác phẩm này được giới trí thức, giới chính trị cũng như giới Phật Giáo chú ý đặc biệt.

Nhưng không gây sóng gió và tranh luận suốt nhiều năm trời như những tác phẩm của Thích Thiện Chiếu. Đối với Tăng, Ni, Phật Tử thập niên 30, những tư tưởng Phật Học của Thích Thiện Chiếu là những tiếng sét ngang tai. Ngày nay đọc lại, chắc chắn quý vị tăng sĩ, cư sĩ và Phật Tử cũng không khỏi giựt mình, chấn động và suy nghĩ. Những tư tưởng này, được viết từ thập niên 30, ngày nay, cuối thập niên 90, vẫn còn mới, còn táo bạo, còn chứa đầy sức nặng của đá tảng và sức nổ của sấm sét. Thích Thiện Chiếu là tinh hoa sáng chói của Phật Giáo trong thập niên 20, 30. Ông đã đi tiền phong trong mọi lãnh vực chấn hưng và hiện đại hóa Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ 20 này.

Ta phải đứng trên một đỉnh núi cao, mới hy vọng nhìn thấy những cái gì chưa ai nhìn thấy, những cái gì nằm khuất sau dãy núi cao. đó có thể là những dãy núi cao hơn, hay là một đại dương mênh mông hay là một bình nguyên rực rỡ. Thích Thiện Chiếu là một ngọn núi cao của Phật học và Phật Giáo Việt Nam trước đệ nhị thế chiến. Ta hãy đứng trên đỉnh núi cao ngất, hùng tráng này để nhìn rõ một đỉnh núi cao ngất, hùng vĩ khác, là Cư sĩ, Bồ Tát, Giáo Chủ Huỳnh Phù Sổ.

 

|Muc Luc| |Ch.1| |Ch.2| |Ch.3| |Ch.4| |Ch.5| |Ch.6| |Ch.7| |Ch.8| |Ch.9| |Ch.10|TK|

[BHH430] [PGHH] [THƯ VIỆN PGHH]

Categories: Tin-Tức Thế-Giới | Leave a comment

Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ và Phật Giáo Thời Ðại

…… … .  . .  .  . Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ

và Phật Giáo Thời Ðại

Lê Hiếu Liêm

 

 

Chương một: Dẫn nhập Việt Nam và Phật Giáo đầu thế kỷ hai mươi.

 

Đầu thế kỷ 20, tư tưởng Nho Giáo, thống trị độc tôn đất nước từ Thời Hồ Quý Ly, nhà Lê và nhà Nguyễn suốt 400 năm, hoàn toàn sụp đổ. Tư tưởng Phật Giáo, ngự trị vinh quang trong thời đại Lý Trần từ thế kỷ thứ 11 đến cuối thế kỷ 14, suy đồi tận gốc. Tư tưởng Tây Phương và tôn giáo của nó, Thiên Chúa Giáo La Mã, bị đại đa số trí thức và nhân dân coi như sản phẩm và công cụ của chế độ Thuộc Địa và thực dân Pháp nên vẫn không được chấp nhận. Ý thức hệ Cộng Sản cũng như các tư tưởng mới khác chưa ra đời. Cả một khoảng trống tư tưởng, cũng có nghĩa là một khoảng trống tôn giáo và chính trị, to lớn bao trùm trên một nước Việt Nam bị nô lệ, bóc lột, áp bức, lạc hậu và nghèo đói. Nhưng đây cũng là môi trường lý tưởng cho sự ra đời của những tư tưởng mới, những tôn giáo mới, những chính đảng mới và những phong trào mới: Phong trào Đông Du và Việt Nam Duy Tân Hội của Phan Bội Châu từ năm 1904, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can và các nhà Nho tiến bộ năm 1907, tư tưởng dân quyền và dân chủ của Phan Chu Trinh suốt hai mươi năm (1905-1925), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội cùng năm, Việt Nam Quang Phục Hội năm 1912, cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ và ở Huế năm 1916 của Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung, vua Duy Tân…, phong trào Hội Kín ở miền Nam năm 1913-1916 lan rộng khắp Lục Tỉnh và cuộc tấn công Sài Gòn năm 1916. Các hoạt động này đã liên tục diễn ra từ đầu thế kỷ 20 đến cuối đệ nhất thế chiến.

Tuy nhiên mãi đến đầu thập njiên 20 Việt Nam mới thật sự thức dậy với sự ra đời Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng Chí Hội và Tân Việt Cách Mạng Đảng năm 1925, Đạo Cao Đài năm 1926, Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1927, Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và sự ra đời của Đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1930 và phong trào Sô Viết Nghệ Tỉnh 1930-1931.

 

Trong thời gian sôi động này, từ 1925 trở đi, Phật Giáo cũng đã thức dậy. Từ năm 1923, thiền sư Khánh Hòa và thiền sư Thiện Chiếu đã thành lập, tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh, Hội Lục Hòa Liên Hiệp với mục đích vận động thành lập một Hội Phật Giáo Việt Nam toàn quốc để chấn hưng Phật Giáo. Thiền sư Thiện Chiếu, khác hẳn tất cả tăng sĩ Phật Giáo đương thời, là một tăng sĩ có tân học. Ông đã đi ra Trung và Bắc vận động thống nhất Phật Giáo năm 1927 nhưng bất thành.

Năm 1928 thiền sư Khánh Hòa xây dựng Thích Học Đường và Phật Học Thư Xã tại Chùa Linh Sơn, Sài Gòn và năm 1929 Ông cho ấn hành tạp chí Viên Âm, tập san Phật Học đầu tiên bằng quốc ngữ tại Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Xoài Hột, Mỹ Tho. Cùng thời, thiền sư Thiện Chiếu xuất bản một tạp chí Phật Học nhắm vào giới thanh niên trí thức lấy tên là Phật Hòa Tân Thanh Niên, đặt tòa soạn tại chùa Chúc Thọ ở Gia Định.

 

Năm 1931 thiền sư Khánh Hòa cùng nhiều tăng sĩ và cư sĩ thành lập Hội Phật Học đầu tiên tại Việt Nam, lấy tên là Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học và thiền sư Từ Phong được mời làm Chánh Hội Trưởng. Hội ra tờ Từ Bi Âm năm 1932. Thiền sư Khánh Hòa, cùng người cộng sự thân tín là thiền sư Thiện Chiếu đã đóng vai trò tiền phong khai mở phong trào chấn hưng Phật Giáo và hiện đại hóa Phật Giáo, chuyển động sâu rộng lịch sử Phật Giáo và lịch sử Việt Nam trong suốt 65 năm qua.

Tại miền Trung, thiền sư Giác Tiên mở Phật Học Đường  tại chùa Trúc Lâm năm 1929 và ủy thác cho đệ tử là bác sĩ Lê Đình Thám thành lập Hội An Nam Phật Học năm 1932. Hội quy tụ đông đảo những danh tăng và cư sĩ trí thức tại miền Trung. Cư sĩ Lê Đình Thám được bầu làm Hội Trưởng và vua Bảo Đại được mời làm Hội Trưởng Danh Dự. Hội ra tạp chí Phật Học Viên Âm năm 1933. Năm 1934, thiền sư Giác Tiên, cư sĩ Lê Đình Thám… đã thành lập Trường An Nam Phật Học, trong đó có mở cấp Đại Học Phật Giáo. Đặc biệt hơn nữa là Hội đã phát động phong trào “Chỉnh Lý Tăng Già” rất quyết liệt để loại trừ ra khỏi tăng già những thành phần phạm giới, bất xứng. Chính nhờ những nổ lực cấp tiến này mà Phật Giáo miền Trung đã đóng được một vai trò quan trọng trong những thập niên sau đó.

Năm 1934 các thiền sư Trí Hải, Tâm Ứng, Tâm Bảo cùng với giới cư sĩ trí thức tên tuổi tại Hà Nội như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Dương Bá Trạc, Trần Văn Giáp, Nguyễn Năng Quốc, Nguyễn Hữu Kha, Bùi Kỷ, Lê Dư… thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Hội, bầu cư sĩ Nguyễn Năng Quốc làm hội trưởng và suy tôn thiền sư Thanh Hanh làm Thiền Gia Pháp Chủ. Đặc biệt là trong buổi lễ suy tôn Pháp Chủ này, cư sĩ Trần Trọng Kim đã thuyết pháp về đề tài; “Thập Nhị Nhân Duyên”. Hội ra tạp chí Đuốc Tuệ năm 1935 và phát triển mạnh mẽ khắp miền Bắc (Nguyễn Lang, Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, q 3, t 51-173).

Đặc tính của cả ba Hội Phật Học tại ba miền là vai trò nổi bật của giới trí thức cư sĩ, là thuần túy Phật học và sinh hoạt Phật sự. Thời điểm 1925-1945 là thời điểm chuẩn bị trong kiên nhẫn và thầm lặng. Các hội Phật Học đã làm đúng chức năng và vai trò lịch của mình, một cách khiêm tốn, từ đống gạch vụn đổ nát của nền Phật học và Phật Giáo Việt nam trong thời Thực Dân Pháp thống trị.

Trong thời kỳ này xuất hiện những con người đặc biệt, xuất sắc và những tư tưởng mạnh mẽ, quyết liệt, trong Phật Giáo cũng như ngoài Phật Giáo. Từ đầu thập niên 30, tư tưởng Phật Hộc của Thích Thiện Chiếu đã là những quả bom chấn động. Và năm 1939 Huỳnh Phú Sổ xuất hiện làm một cuộc cách mạng tôn giáo, cải cách toàn bộ và triệt để Phật Giáo chưa từng có trong hai ngàn năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Miền Nam, một vùng đất lạ lùng và kỳ diệu…

 

An Hòa Tự

Phan Chu Trinh từ Pháp trở về Sài Gòn năm 1925, đất nước bùng lên những làn sóng tư tưởng dân quyền và dân chủ. Ông khẳng định phải tìm nguyên nhân mất nước trong sự mất đạo đức, mất luân lý, trong bài diễn thuyết Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây, và ông cũng khẳng định chế độ quân chủ chuyên chế là nguyên nhân chính làm mất nước trong bài thuyết giảng Quân Trị Chủ Nghĩa và Dân Trị Chủ Nghĩa tại Sài Gòn năm 1925. Ông mất năm sau đó và đám tang ông cùng với cuộc vận động ân xá nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã khơi bùng phong trào yêu nước và yêu tự do dân chủ trên toàn quốc, đặc biệt là trong giới thanh niên.

Nhưng dữ dội, bốc lửa và sấm sét trong tư tưởng yêu nước chống thực dân cũng như tư tưởng tự do dân chủ, trong thời này, chỉ có Nguyễn An Ninh là đi xa nhất, quyết liệt nhất. Là một thanh niên miền Nam, Ông đi du học ở Pháp và trở về nước với bằng cử nhân Luật. Lợi dụng quy chế thuộc địa của Nam Kỳ, nơi mà báo chí bằng tiếng Pháp được tự do, không bị kiểm duyệt, Ông ra tờ La Cloche fèlèe (Tiếng Chuông Rè) từ năm 1923 đến năm 1926. Ông tự xưng tờ báo của Ông là “cơ quan tuyên truyền tư tưởng Pháp”, lấy tư tưởng của kẻ xâm lăng để đập những nhát búa tạ vào chế độ Thực Dân, đồng thời tờ báo cũng tự nhận là “cơ quan chuẩn bị cho tương lai dân tộc”. Thật là độc đáo và tuyệt vời.

Ngoài việc phê bình kịch liệt, thẳng tay chính sách và chế độ thực dân, Ông cổ võ cho việc đào tạo một tầng lớp thanh niên Việt Nam tân học, có văn hóa, có lý tưởng, có chí khí, có năng lực và có tổ chức và Ông tuyệt đối tin vào sức mạnh và vào tương lai của nhân dân Việt Nam. Ông chủ trương một nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc và trở về lịch sử dân tộc để tìm niềm tin và sức mạnh. Ông hô hào, khi chỉ mới ngoài 20 tuổi, “Chẳng những phải duy trì những giấc mộng vĩ đại, mà còn phải tổ chức thành một nhóm quan trọng để chuẩn bị cho tương lai”. Không những tư tưởng táo bạo, độc đáo, mới lạ, kiến thức của Ông cũng rất uyên bác. Khi Thống Đốc Nam Kỳ tuyên bố: “Xứ này không cần trí thức”. Ông đã viết bài trả lời bốc lửa: “… Những thảm khổ của chúng ta ngày nay, còn gì nữa, đúng là do tổ tiên của chúng ta đã sờ mó vào cây kiến thức. Hạng trí thức đã làm đảo lộn thế giới, làm hư hỏng hạnh phúc của thế giới. Hãy nguyền rủa tên tuổi của Prométhé, kẻ đã lấy trộm chút lửa của Trời. Hãy nguyền rủa con người đã bày ra cái ná cao su cho trẻ con bắn đá vào trán ông khổng lồ… Trí Tuệ, đó là cái tai hại. Trí tuệ, đó là con rắn cuốn quanh thân cây đã làm cho chúng ta vĩnh viễn mất cõi thiên đường… Nói đến vai trò giáo dục, vai trò văn minh của các ông chủ xứ Đông Dương này, thưa các ông, điều ấy làm ta mỉm cười… Người ta đã quỳ lụy bái phục những vị “đem ánh sáng tới”, những vị “làm điều kỳ diệu ở Ấu Châu”… Cái gì kỳ diệu? Thực ra cái kỳ diệu đó là, chỉ trong một thời gian ngắn thôi, người ta đã có thể làm cho trình độ trí thức của người Nam đã thấp đi lại càng rơi vào chỗ cực kỳ dốt nát. Cái kỳ diệu đó là người ta đã có thể, trong một thời gian ngắn như thế, xô đẩy một dân tộc có tư tưởng dân chủ, ngã nhào vào tình trạng nô lệ hoàn toàn“. (Trần Văn Giàu, Sự Phát Triển Của Tư Tưởng ở Việt Nam Từ Thế Kỷ 19 đến Cách Mạng Tháng Tám, q2, t 311).

Nguyễn An Ninh cũng là một trong những nhà trí thức tân học đầu tiên nghiên cứu Phật Học và hoàn thành một tác phẩm Phật Học quan trọng, cuốn “Phê Bình Phật Giáo”. Sau thời kỳ hoạt động sôi nổi từ 1923 đến 1926, Nguyễn An Ninh bị ở tù trong thời gian 1926-1927, sau đó Ông về nghiên cứu Phật Giáo. Trên bàn làm việc của Ông, có một cái chuông, một cái mõ, Ông cạo trọc đầu và đi chân không. Ông nghiên cứu Phật Giáo qua tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức và các hoạt động Phật Giáo trong nước. Cuốn Phê Bình Phật Giáo xuất bản năm 1937 là kết quả của sự nghiên cứu này. Tựa đề của cuốn sách, 70 năm sau cũng không có ai dám viết một cuốn sách Phật Học có tựa đề thách thức và can đảm như vậy. Mục đích và phương pháp luận còn mới lạ, táo bạo hơn, đó là “so sánh Phật Giáo với thời đại của nó để chỉ chỗ hay, chỗ đúng hơn của nó đối với các thuyết khác và so sánh Phật Giáo với thời đại này để chỉ sai lầm của Phật Giáo“. Tác phẩm này được giới trí thức, giới chính trị cũng như giới Phật Giáo chú ý đặc biệt.

Nhưng không gây sóng gió và tranh luận suốt nhiều năm trời như những tác phẩm của Thích Thiện Chiếu. Đối với Tăng, Ni, Phật Tử thập niên 30, những tư tưởng Phật Học của Thích Thiện Chiếu là những tiếng sét ngang tai. Ngày nay đọc lại, chắc chắn quý vị tăng sĩ, cư sĩ và Phật Tử cũng không khỏi giựt mình, chấn động và suy nghĩ. Những tư tưởng này, được viết từ thập niên 30, ngày nay, cuối thập niên 90, vẫn còn mới, còn táo bạo, còn chứa đầy sức nặng của đá tảng và sức nổ của sấm sét. Thích Thiện Chiếu là tinh hoa sáng chói của Phật Giáo trong thập niên 20, 30. Ông đã đi tiền phong trong mọi lãnh vực chấn hưng và hiện đại hóa Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ 20 này.

Ta phải đứng trên một đỉnh núi cao, mới hy vọng nhìn thấy những cái gì chưa ai nhìn thấy, những cái gì nằm khuất sau dãy núi cao. đó có thể là những dãy núi cao hơn, hay là một đại dương mênh mông hay là một bình nguyên rực rỡ. Thích Thiện Chiếu là một ngọn núi cao của Phật học và Phật Giáo Việt Nam trước đệ nhị thế chiến. Ta hãy đứng trên đỉnh núi cao ngất, hùng tráng này để nhìn rõ một đỉnh núi cao ngất, hùng vĩ khác, là Cư sĩ, Bồ Tát, Giáo Chủ Huỳnh Phù Sổ.

 

|Muc Luc| |Ch.1| |Ch.2| |Ch.3| |Ch.4| |Ch.5| |Ch.6| |Ch.7| |Ch.8| |Ch.9| |Ch.10|TK|

[BHH430] [PGHH] [THƯ VIỆN PGHH]

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Con trai Tổng thống Trump gửi thông điệp xúc động tới cha mình

Con trai Tổng thống Trump gửi thông điệp xúc động tới cha mình

Lục Du | DKN 11 giờ tới 606 lượt xem
Eric Trump, con trai của Tổng thống Mỹ Donald Trump (ảnh: Screenshot/Yahoo News)
Eric Trump, con trai thứ hai của Tổng thống Trump, đã có bài phát biểu tại Hội nghị Quốc gia của Đảng Cộng hòa vào thứ Ba (25/8), kết thúc bài phát biểu Eric đã gửi tới cha mình một số thông điệp cá nhân, theo The BL.

Trong bài phát biểu của mình, ông Eric nói về bốn năm cầm quyền đầu tiên của Tổng thống Trump và cách cha của ông đấu tranh vì “những người lao động bị lãng quên ở nước Mỹ”.

“Phong trào của chúng tôi tuân theo mô hình của rất nhiều người đi trước chúng tôi”, Eric Trump nói. “Đầu tiên, chúng tôi không được để ý. Sau đó chúng tôi bị cười nhạo. Sau đó họ tấn công chúng tôi. Và sau đó, cùng nhau, chúng tôi đã giành chiến thắng”.

Nói về những đảng viên Đảng Dân chủ thiên tả, Eric nói rằng những người đó “muốn phá hủy những tượng đài của tổ tiên chúng ta. Họ muốn phủ nhận lá cờ của chúng ta. Đốt cháy những ngôi sao và sọc đại diện cho lòng yêu nước và Giấc mơ Mỹ [trên lá cờ]”.

“Họ muốn không tôn trọng quốc ca của chúng ta bằng cách quỳ gối [xin lỗi tội phạm] trong khi các lực lượng vũ trang của chúng ta đã hy sinh mạng sống hàng ngày để bảo vệ tự do của chúng ta. Họ không muốn Tuyên bố Trung thành trong trường học của chúng ta. Họ không muốn “Một quốc gia dưới Chúa”, ông Eric nói, đề cập tới việc nhiều nghị sĩ thuộc đảng Dân chủ quỳ gối xin lỗi sau khi một cảnh sát ngộ sát một tội phạm ma túy tên Floyd ít tháng trước.

“Họ tin rằng con đường duy nhất phía trước là xóa bỏ lịch sử và quên đi quá khứ”, ông Eric nói thêm.

“Đảng Dân chủ muốn bôi nhọ, phá hủy và không tôn trọng cơ quan thực thi pháp luật của chúng ta”, và “Đảng Dân chủ muốn có một nước Mỹ nơi suy nghĩ và quan điểm của bạn bị kiểm duyệt khi những suy nghĩ đó không phù hợp với ý kiến của họ”, ông Eric tiếp tục chỉ trích phe Dân chủ.

“Đây là cuộc chiến mà chúng ta đang tham gia ngay bây giờ. Và đó là một cuộc chiến mà chỉ có cha tôi mới có thể chiến thắng”, ông Eric về cuộc chiến với những đảng viên thiên tả của đảng Dân chủ và cha của ông, Tổng thống Trump.

Nói với cha mình, ông Eric đề cập đến người chủ Robert, người em trai của tổng thống Trump mới qua đời hôm 15/8.

“Cha, hãy làm cho chú Robert tự hào. Hãy bắt đầu bốn năm nữa”.

Eric kết thúc bài phát biểu của mình với những lời cảm động dành cho cha, “Con yêu bố rất nhiều. Chúa phù hộ cho bố và Chúa phù hộ cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”.

Categories: Tin Hoa Kỳ | Leave a comment

Thành tựu lớn nhất đời người là khoan dung

Thành tựu lớn nhất đời người là khoan dung

Ngọc Mai | DKN 9 giờ tới 289 lượt xem
sự khoan dung
Ảnh minh họa: Shutterstock.
Có câu nói như thế này: Dung lượng trái tim của một người rộng lớn như thế nào thì thế giới của họ rộng lớn như thế.

Victor Hugo cũng từng nói “Có điều to lớn hơn đại dương, đó chính là bầu trời; có điều to lớn hơn bầu trời, đó chính là nội tâm của một người” (Nguyên văn: There is one spectacle grander than the sea, that is the sky; there is one spectacle grander than the sky, that is the interior of the soul)

Thành tựu lớn nhất của đời người là lòng khoan dung.

Khoan dung không phải sự yếu hèn, không phải nhu nhược mà là không nhớ lỗi lầm của người, thấy người kém không kiêu ngạo, thấy người giỏi không tự ti, thấy người gặp khó khăn thì có thể bù đắp chỗ thiếu sót và giúp họ phát huy ưu điểm.

Chuyện chậu lan của vị hòa thượng

Lão hòa thượng trồng một chậu hoa lan xinh đẹp. Hoa lan cũng nhờ vào sự chăm sóc của ông mà lớn lên khỏe mạnh và thanh tú. Một lần, ông phải đi ra ngoài có việc một thời gian, ông liền giao chậu lan lại cho tiểu hòa thượng nhờ chăm sóc.

Một hôm, tiểu hòa thượng sau khi tưới nước cho hoa liền đặt chậu lan ở bệ cửa sổ rồi ra ngoài làm việc. Thế rồi mưa to xối xuống, gió to làm chậu lan rơi xuống mặt đất vỡ tan. Khi tiểu hòa thượng trở về thấy chậu lan chỉ còn cành lá gãy rập, héo úa dưới đất. Cậu vừa đau lòng vừa lo sợ sư phụ sẽ quở trách.

Sư phụ và đồ đệ
Ảnh minh họa: Shutterstock.

Khi vị sư già trở lại, tiểu hòa thượng đã chuẩn bị tinh thần bị phạt. Nhưng sư phụ cậu chỉ cười cười, không trách mắng chút nào. Tiểu hòa thượng bất ngờ: “Sư phụ, người không tức giận sao? Sao lại không trách mắng con?”.

Lão sư cười nhạt một tiếng: “Ta trồng hoa lan không phải vì để tức giận”.

Chỉ một câu nói đơn giản nhưng lại thể hiện một người có tấm lòng bao dung rộng lượng và cởi mở với cuộc đời.

Thế giới xung quanh chính là phản ánh nội tâm của bạn

Lão hòa thượng trồng hoa không phải để nổi giận. Tương tự như vậy, chúng ta học tập để không phải để tức giận. Chúng ta làm việc không phải để để tức giận. Chúng ta yêu thương không phải để tức giận. Chúng ta sống không phải để tức giận.

Nếu bạn ôm giữ hận thù, cuộc sống xung quanh đều là những điều không vừa mắt.

Nếu bạn ôm giữ lòng biết ơn, thế gian khắp nơi đều là lòng cảm ân.

Nếu dung lượng tâm của bạn lớn lên, sức chịu đựng của bạn cũng lớn lên, những điều người khác không vừa mắt, đối với bạn cũng có thể xem rất nhẹ nhàng.

Dù bạn không thể chọn những điều sẽ xảy ra với bản thân, bạn vẫn có thể lựa chọn thái độ đối với những khó khăn trong đời người. Bạn có thể ôm giữ oán hận hoặc thái độ tiêu cực trong nghịch cảnh; bạn cũng có thể rèn luyện nội tâm vững vàng trước những sóng gió. Chỉ là bạn sẽ chọn con đường nào?

khoan dung
Ảnh minh họa: Shutterstock.

Đời người 8, 9 phần là không như ý, những chuyện muốn gì được nấy, mọi việc đều toại nguyện là rất ít.

Người khoan dung bề ngoài dù xinh đẹp hay tầm thường, ở bên trong cũng là nội tâm quảng đại, tấm lòng rộng mở, có thể dung chứa vạn vật, độ lượng với mọi người.

Người khoan dung thường suy nghĩ cho người khác, chân thành không kiêu ngạo, lòng dạ thoáng đãng. Họ mang khí chất khiêm nhường của người quân tử “người quân tử trong sáng vô tư, kẻ tiểu nhân thường mang ưu sầu”.

Làm thế nào mới có thể nuôi dưỡng lòng bao dung?

Thật dễ dàng chỉ trích thiếu sót người khác, oán trách lỗi lầm của người, phàn nàn và phán xét về những quyết định sai của họ. Những hành động tiêu cực ấy, chắc chắn sẽ không thể mang lại tác dụng tích cực, vì nó dựa trên quan điểm của bản thân để phán xét sự việc, là xuất phát từ “Vị tư” (Vì mình). Hãy thử đổi góc độ, đứng từ “Vị tha” (vì người khác) mà xét vấn đề, thực sự xuất phát điểm “muốn tốt cho người khác” chứ không phải “muốn người khác phù hợp với quan điểm của mình”.

Khi một người không phàn nàn về người khác, người ấy đã tránh xa khỏi oán hận. Khi một người không ghét bỏ người khác, người ấy đã tránh xa khỏi thù hận. Người có đạo đức cao thượng luôn biết cách phân biệt Chính – tà và lánh xa thù hận. Chỉ khi lánh xa thù hận, người ấy mới nảy sinh lòng khoan dung.

Một người khoan dung chân chính phát xuất ra ánh hào quang của từ bi và tường hòa. Hào quang ấy chiếu sáng những người xung quanh và chính bản thân họ. Khi một người thực sự khoan dung từ nội tâm, không oán không hận, người ấy mới có thể cảm nhận được hạnh phúc chân chính. Họ sẽ được ban phúc lành và con đường sẽ rộng mở trước mặt họ.

Ngược lại, một người tâm đầy thù hận sẽ không bao giờ thực sự thiện với người khác. Ngọn lửa hận thù sẽ che mờ lý trí của họ. Nó cũng giống một thanh gươm tẩm độc, không những làm người khác bị thương, mà còn làm hại chính chủ nhân của nó.

Ngọc Mai
Tham khảo Sound of Hope, Chánh Kiến

Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Sự kiện ông Tập bị tố là ‘trùm xã hội đen’ làm rúng động chính trường ĐCSTQ

Sự kiện ông Tập bị tố là ‘trùm xã hội đen’ làm rúng động chính trường ĐCSTQ

Hương Thảo | DKN 8 giờ tới 2,349 lượt xem
Sự kiện ông Tập bị tố là 'trùm xã hội đen' làm rúng động chính trường ĐCSTQ
(Ảnh chụp màn hình/Asianews.it)
Có phân tích chỉ ra, những lời chỉ trích ĐCSTQ lại đến từ một nhân vật trọng yếu trong đảng như vậy sẽ càng có lực sát thương mạnh mẽ đối với giới chức cấp cao ĐCSTQ, theo Reuters.

Bà Thái Hà (Cai He), cựu giáo sư trường Đảng trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), vì lên tiếng chỉ trích chính quyền ĐCSTQ là “thây ma chính trị” và chỉ đích danh Tổng Bí thư ĐCSTQ Tập Cận Bình là “trùm băng đảng xã hội đen”, đã bị trường Đảng trung ương khai trừ khỏi đảng và hủy đãi ngộ hưu trí đối với bà.

Vụ việc đã làm rúng động Trung Nam Hải, khiến trường Đảng Trung ương mau chóng ra chỉ lệnh “tiếp thu bài học giáo huấn” và yêu cầu tất cả các thành viên của trường phải bảo trì sự nhất trí cao độ với “Tập hạt nhân” của Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ. Có phân tích chỉ ra rằng, những lời chỉ trích ĐCSTQ lại đến từ một nhân vật trọng yếu trong đảng như vậy càng có lực sát thương mạnh mẽ đối với giới chức cấp cao ĐCSTQ.

Trang web chính thức của trường đảng Trung ương ĐCSTQ ngày 19/8 đã đăng tải thông tin rằng, sáng ngày 17/8, trường Đảng Trung ương ĐCSTQ (Học viện Hành chính Quốc gia) đã triệu tập cuộc họp với người đứng đầu và người lãnh đạo tổ chức đảng của các đơn vị trực thuộc để báo cáo vụ việc của bà Thái Hà. Ông Hà Nghị Đình, Phó hiệu trưởng trường Đảng trung ương, được coi là một trong những “quân sư” quan trọng nhất của ông Tập Cận Bình, đã yêu cầu hệ thống trường đảng phải “rút ra bài học giáo huấn sâu sắc” từ vụ việc của cựu giáo sư Thái Hà, “tất cả phải cùng bảo trì sự nhất trí cao độ về mặt tư tưởng, hành vi và chính trị với Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ mà trong đó lấy ông Tập Cận Bình làm nhân vật trung tâm”, …

Ông Hà cũng nhấn mạnh rằng có 4 điều “quyết không cho phép” đối với toàn bộ giáo viên của trường, bao gồm việc phổ biến các ý kiến ​​trái với lý luận và phương châm đường lối chính sách của đảng, công khai phát biểu các ngôn luận trái với quyết sách của trung ương, bịa đặt và lan truyền các tin đồn chính trị cũng như ngôn luận bôi nhọ hình ảnh của đảng và đất nước, nghiêm cấm tham gia vào các tổ chức phi pháp và các nhóm có hoạt động phi pháp.

Được biết, hiệu trưởng hiện tại của trường Đảng trung ương ĐCSTQ là ông Trần Hy, bạn học cùng trường đại học Thanh Hoa của ông Tập Cận Bình. Ông Trần hiện là Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSTQ khóa 19, Bộ trưởng Bộ Tổ chức Trung ương, Bí thư Ban Bí thư Trung ương .

Trường Đảng trung ương là trường đào tạo cán bộ lãnh đạo và cán bộ lý luận dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương, đây cũng là cơ sở hình thái ý thức của ĐCSTQ, được thành lập năm 1933 với tên đầy đủ là trường Đảng Trung ương ĐCSTQ (Học viện Hành chính Quốc gia).

Cựu lãnh đạo Mao Trạch Đông đã tự tay viết khẩu hiệu của trường. Ông Giang Trạch Dân từng tự tay khắc tên trường, các lãnh đạo cấp cao ĐCSTQ từng nhậm chức hiệu trưởng trường đảng còn có ông Hồ Cẩm Đào, Tăng Khánh Hồng, Tập Cận Bình, Lưu Vân Sơn…

Các kênh “truyền thông đỏ” thường ví trường Đảng trung ương là cái nôi của các quan chức cấp cao ĐCSTQ. Năm 2015, ông Tập Cận Bình trong lúc phát biểu đã nhấn mạnh rằng “trường đảng mang họ Đảng”.

Bà Thái Hà, nhân vật chính của sự kiện chống lại ông Tập gần đây, sinh năm 1952, trước khi nghỉ hưu từng là giáo sư Khoa Nghiên cứu Giảng dạy xây dựng Đảng của trường Đảng Trung ương. Có thông tin rằng phương hướng nghiên cứu chủ yếu của bà là hình thái ý thức chính trị của đảng và xây dựng đảng cầm quyền.

Tháng 6 năm nay, một đoạn băng ghi âm bài phát biểu của bà Thái Hà tại buổi họp mặt của “Hồng nhị đại” ở Hoa Kỳ được lan truyền rộng rãi trên mạng. Đoạn ghi âm cho biết, Hội nghị toàn thể lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ khóa 18 đã đưa ra vấn đề sửa đổi hiến pháp nhằm bãi bỏ chế độ nhiệm kỳ của chủ tịch nước, theo trình tự nội bộ đảng điều này vốn không hợp pháp, nhưng không một ủy viên Trung ương nào dám đưa ra ý kiến khác, “Bản thân đảng này đã là một thây ma chính trị”.

Đoạn ghi âm cũng nói, rằng việc không hỗ trợ thực thể kinh tế, nói xấu trung ương, không trung thực với đảng đều cấu thành nên cáo buộc “hoàn toàn không có mùi vị pháp trị cũng như cảm giác của một đảng phái chính trị thực thụ vì dân” đối với ĐCSTQ, đồng thời Tổng bí thư ĐCSTQ Tập Cận Bình đã “trở thành trùm băng đảng xã hội đen”.

Trường Đảng trung ương ĐCSTQ ngày 17/8 đã ra thông cáo trên Internet rằng họ đã khai trừ đảng tịch của bà Thái và hủy bỏ đãi ngộ hưu trí của bà, đồng thời cáo buộc phát biểu của bà có “vấn đề chính trị nghiêm trọng và gây tổn hại đến thanh danh của đất nước”, “tính chất cực kỳ ác liệt, tình tiết cực kỳ nghiêm trọng”.

Vào ngày 18/8, Baidu Trung Quốc cho biết công cụ tìm kiếm “Sơ yếu lý lịch của bà Thái Hà” đã bị chặn.

Ông Hồ Tích Tiến, Tổng biên tập tờ “Thời báo Hoàn cầu” – trang truyền thông của ĐCSTQ, đã mô tả trên Weibo của mình rằng: Thái Hà – người được đông đảo cư dân mạng coi là phần tử trí thức thuộc phe tự do trong trường đảng đã đưa ra những ngôn luận chống phá chính quyền có tính đại biểu không thua kém giới nhân sĩ bất đồng chính kiến ​​cấp tiến nhất ở Trung Quốc.

Trong một cuộc phỏng vấn với truyền thông nước ngoài, bà Thái Hà nhắc lại quan điểm của bà về tương lai của ĐCSTQ: “Thứ nhất, Tập Cận Bình buộc phải từ chức – chỉ có cách thay thế ông Tập thì mới có thể từ từ hóa giải trạng thái khủng bố áp lực cao trong nội bộ đảng. Thứ hai, cái lớp vỏ ‘Đảng Cộng sản’ này phải được loại bỏ” . “ĐCSTQ là một thây ma chính trị. Từ chính quan điểm của bản thân cái đảng này mà nói, nó không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử chuyển đổi mô hình của Trung Quốc. Vì vậy, nó buộc phải hạ đài…”.

Lý thuyết “thay người” của bà Thái Hà do vậy bị nghi ngờ là của phe cải cách nhằm duy trì sự sinh tồn của đảng. Tuy nhiên, có không ít quan điểm cho rằng sự kiện Thái Hà cũng đã đánh dấu khúc nhạc dạo đầu cho sự sụp đổ của ĐCSTQ, và ông Tập Cận Bình, người đứng đầu ĐCSTQ hiện nay đã bị cô lập hoàn toàn.

Hãng truyền thông Anh BBC chỉ ra rằng sự kiện Thái Hà đã rúng động đến Trung Nam Hải, một trong những lý do quan trọng là bởi bà Thái Hà là nhân vật hạch tâm trong ĐCSTQ.

Phân tích này cho rằng ngoài việc bà Thái là thế hệ đỏ thứ hai chính thống, sự việc không chỉ cho thấy thế hệ đỏ thứ hai của ĐCSTQ đang chia rẽ, mà còn bởi vì bà là một nhân vật nòng cốt: trường Đảng Trung ương là cái nôi của các cán bộ ĐCSTQ, các lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ bao gồm Mao Trạch Đông, Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình đều đã từng kiêm nhiệm hiệu trưởng trường đảng, và bà Thái Hà quanh năm đều dạy học ở đây. Những lời chỉ trích ĐCSTQ lại đến từ một nhân vật trọng yếu trong đảng như vậy càng có lực sát thương lớn mạnh đối với giới chức lãnh đạo cấp cao của ĐCSTQ.

Theo Secret China
Hương Thảo biên dịch

Categories: Tin-Tức Thế-Giới | Leave a comment

Vua Hàm Nghi: Đi đày châu Phi vẫn áo dài khăn đống An Nam, an nghỉ trong nắng ấm miền Tây Nam nước Pháp

Vua Hàm Nghi: Đi đày châu Phi vẫn áo dài khăn đống An Nam, an nghỉ trong nắng ấm miền Tây Nam nước Pháp

Khiêm Từ | DKN 5 giờ tới 9,362 lượt xem
Ảnh: Tổng hợp
Tỉnh Dordogne thuộc vùng Aquitaine, miền Tây Nam nước Pháp được phủ kín bởi màu xanh mát của rừng, của đồng ngô, của dòng sông uốn lượn và bầu trời cao thẳm… Phong cảnh nơi đây nổi tiếng với những lâu đài cổ kính, đồi núi cây xanh, nắng hạ ấm áp, tiện lợi cho việc tĩnh dưỡng nghỉ ngơi.

Với riêng người Việt Nam, Dordogne còn gợi lên một nỗi u hoài khi về tới Château de Losse (Lâu đài Losse) của hoàng tộc An Nam xưa kia, và cách đó không xa là nơi hoàng đế Hàm Nghi an nghỉ sau một cuộc đời mất nước đau thương và đi đày biệt xứ.

Hàm Nghi (1871 – 1944), tên thật Nguyễn Phúc Ưng Lịch, là vị hoàng đế thứ tám của nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ưng Lịch từ nhỏ sống trong cảnh bần hàn, dân dã với mẹ chứ không như hai người anh ruột ở trong cung. Ngày 2 tháng 8 năm 1884 ở điện Thái Hoà, ông được các phụ chính đại thần chủ trương chống Pháp là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi ở tuổi 13.

Chân dung được phục dựng của Hoàng đế Hàm Nghi (Nguồn: Wikipedia)

Vị vua có lòng tự tôn dân tộc

Nửa tháng sau, Đại tá Guerrier cầm đầu 185 sĩ quan binh lính đến hoàng thành dự lễ phong vương. Guerrier buộc triều đình Huế phải để phái đoàn đi lối giữa vào Ngọ Môn thường dành riêng cho vua. Triều Nguyễn cự tuyệt. Quân Pháp phải nhượng bộ, chấp nhận mọi thành phần quan khách đi cửa phụ hai bên trừ 3 người là đại tá Guerrier, khâm sứ Rheinart và đô đốc Wallarrmé vào cổng chính.

Tính khí khái của vị hoàng đế trẻ vừa lên ngôi vô tình khơi lại niềm kiêu hãnh dân tộc tự chủ, gióng lên tiếng chuông thức tỉnh thần dân. Bất kể lính Pháp đóng quân tại cố đô, vua Hàm Nghi và triều đình Huế vẫn tỏ thái độ đối đầu không hèn…

Năm sau 1885, thống tướng De Courcy biệt phái sang Đông Dương để phụ lực đặt nền bảo hộ. Khi sửa soạn yết kiến vua Hàm Nghi, De Courcy ra yêu sách cũ là phái đoàn tháp tùng 500 người phải đi vào cung vua bằng cửa giữa. Triều đình Huế lại đề nghị như lần trước cho đúng lễ nghi nhưng De Courcy từ chối thẳng thừng.

Thấy người Pháp khinh mạn vua mình như vậy nên Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định ra tay trước: đem quân tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá. Lính Pháp phản công tảng sáng hôm sau, quân triều Nguyễn thua, bỏ kinh thành Huế chạy đến Tân Sở. Nơi đây, vào đầu tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi tuyên hịch Cần Vương kêu gọi sĩ phu và nông dân nổi dậy chống Pháp giành độc lập.

Toàn văn Chiếu Cần Vương. (Nguồn: Wikipedia)

Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, vua anh Đồng Khánh và 3 bà Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Paul Bert cũng đã định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh Bình nhưng cũng không thành. Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người. (1)

Dân chúng hưởng ứng phong trào Cần Vương rất đông. Gosselin trong cuốn “L’Empire de l’Annam” cho rằng: “Tên của ông ta đã trở thành ngọn cờ của nền độc lập quốc gia… Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng nổi lên theo lời gọi của ông vua xuất hạnh”. Tiếc thay vì lực lượng tản mát nên thế cô! Tháng 9 năm 1888, nhà vua bị bắt do nội phản, khi mới 17 tuổi.

Ngày nay, lịch sử Việt Nam xem vua Hàm Nghi cùng với Thành Thái, Duy Tân là ba vị vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc. Các học giả nhận định rằng:

“Vua Hàm Nghi đã phải chịu nhiều khổ ải vì phải luồn lách giữa núi rừng hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, giữa muôn vàn thiếu thốn, bệnh tật, đói khát và sự hiểm nguy về tính mạng luôn đe dọa”. (2)

“Nhà vua bị những gian lao mà luyện thành người nhẫn nại và đón cuộc phong trần bằng thái độ rất thản nhiên”. (3)

Lưu đày biệt xứ vẫn đau đáu trời Nam

Người Pháp quyết định đày vua Hàm Nghi sang xứ Algérie ở Bắc Phi. Khâm sứ Rheinart báo cho ông biết là thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua muốn thăm hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt. Nghe vậy, vua Hàm Nghi đáp: “Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha mẹ, anh em nữa”, rồi ông cáo từ về phòng riêng. Sau khi bị truất, cựu hoàng được chính thức gọi là quận công Ưng Lịch.

Vào 4 giờ sáng ngày 25 tháng 11 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống tàu đi vào Lăng Cô. Trước phút rời xa quê hương, nhà vua nhìn lên bờ, không nén được cảm xúc vì nỗi niềm riêng và vận nước nên đã òa khóc. (4)

Từ Sài Gòn, ngày 13 tháng 12 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống chiếc tàu mang tên “Biên Hòa” vượt đại dương đi Bắc Phi. Do không quen đi trên biển, nhà vua bị say sóng liên miên nhưng vẫn không hề thốt ra một lời kêu ca, oán thán. Chiều chủ nhật, 13 tháng 1 năm 1889, Hàm Nghi đến thủ đô Alger của Algérie. Lúc này ông vừa bước qua tuổi 18.

Suốt cuộc đời lưu vong, cựu hoàng không bao giờ nguôi ngoai niềm thương nước cũ. Thời gian đầu ở Alger, ông từ chối học tiếng Pháp vì cho rằng đây là ngôn ngữ của kẻ xâm lăng. Chỉ bắt đầu từ tháng 7, có nghĩa là 6 tháng sau, ông mới chấp nhận học tiếng Pháp. Có lẽ Hàm Nghi hiểu ra rằng phiên dịch của ông sẽ không vĩnh viễn ở lại Alger, và ông cần phải tự lập về ngôn ngữ để có thể giao tiếp và sinh sống tại xứ này.

Đến năm 1904, vua Hàm Nghi bước vào tuổi trung niên, kết hôn với cô Marcelle Laloe, con gái của chánh án tòa thượng thẩm Alger. Đám cưới long trọng trở thành một hiện tượng văn hóa của thủ đô Alger mà chú rể xứ An Nam vẫn trịnh trọng khăn đống áo dài bên cạnh chiếc áo cưới lộng lẫy của cô dâu Tây phương.

Đám cưới cựu hoàng Hàm Nghi. (Nguồn: Wikipedia)

Vua Hàm Nghi cùng bà Marcelle Laloe xây một ngôi nhà mới, có tên là “Biệt thự Gia Long”, do Guiauchain, một kiến trúc sư người Pháp tại Alger thiết kế. Nhà vua sống trọn đời tại đây cùng với gia đình. Họ có ba người con là công chúa Như Mai (1905 – 1999), công chúa Như Lý (1908 – 2005) và hoàng tử Minh Đức (1910 – 1990).

Duyên phận với Thonac, Dordogne

Thonac là quê vợ nên vua Hàm Nghi và bà Laloe đã mua Château de Losse lúc sinh thời. Thời gian sau, công chúa Như Mây sống cuộc đời độc thân trong lâu đài. Những năm cuối vì thiếu tiền bảo quản nên công chúa phải bán đi rồi dọn sang căn hộ nhỏ ở chung với quản gia. Dân làng Thonac đánh giá hạnh phúc của gia đình cựu hoàng rất cao.

Công chúa Như Mây là người phụ nữ đầu tiên đậu thủ khoa kỹ sư canh nông Pháp, được cư dân ở đây mến mộ và lưu truyền những kỷ niệm tốt đẹp.

Hoàng tử Minh Đức xuất thân từ trường quân đội Saint-Cyr, năm 1946 từ chối nhiệm vụ sang Đông Dương với lời tuyên bố: “Tôi không thể cầm súng bắn lại đồng bào tôi”. Ông không có con thừa kế và mất năm 1990.

Công chúa Như Lý tốt nghiệp tiến sĩ y khoa, lập gia đình với công tước François Barthomivat de la Besse và có 3 người con.

Giờ đây, họ đều đã thành người thiên cổ. Hai người Việt xa xứ từng chia sẻ cảm xúc của mình khi viếng thăm phần mộ của vua Hàm Nghi ở nghĩa trang làng Thonac (5):

“Mặt trời tháng Bảy vừa tỏa ánh nắng đầu ngày trên sông Vézère, Lân và Trinh đã lên đường thăm Thonac nơi tọa lạc Château de Losse rồi viếng mộ hoàng tộc ở nghĩa trang. Vừa bước vào, hai người đã thấy nhiều khu vực cũ thiếu bảo trì. Những ngôi mộ bỏ hoang, không được chăm sóc theo định kỳ thì xã trưởng dán thông báo sẽ bốc tro cốt đi nơi khác.

Giữa không gian thê lương cố hữu ở nơi chôn cất, nỗi buồn không tên chiếm hữu tâm hồn người tảo mộ lúc nào không hay và còn buồn hơn khi đứng trước tấm bia của vị hoàng đế lạc lõng nơi quê người. Màu thời gian trên mộ tạo hình ảnh hoang tàn tại khu đất hoàng gia. Rêu phong mọc trên lớp đá vân cẩm thạch thành màu đen che kín.

(…)

Từ khi hoàng tử và hai công chúa khuất mất thì khu đất của vua Hàm Nghi hầu như không người chăm sóc.

Xã trưởng vì nể tình và thấu hiểu hoàn cảnh vị vua An Nam bất hạnh nên vẫn giữ nguyên, không dán giấy nhưng Lân và Trinh đã động lòng, không thể để mộ bia của một quân vương anh hùng nước Việt trong tình trạng tối tăm u uất như thế!

Trinh hỏi thăm bà Culine về người quản lý chuyên lo chỉnh trang phần mộ. Họ tiếp xúc và sẵn lòng chi trả tất cả phí tổn để làm mới lại khu an nghỉ của hoàng gia trước khi kết thúc chuyến nghỉ hè dự tính an nhàn mà biến thành công tác xã hội mang theo những kỷ niệm khó quên…

Ngẫm nghĩ lại câu chuyện vừa kể, vua Hàm Nghi vì muốn bảo tồn danh dự của dân tộc Việt trước thực dân Pháp mà bị đày ải một đời gian truân. Quân vương nước Nam đã dám nói không với đại tá Guerrier và khi tướng De Courcy nói không với triều đình thì ngài nổ súng, rời ngai vàng và tuyên hịch “Cần Vương”. Vua Hàm Nghi không ngần ngại làm những gì phải làm dựa theo đạo lý giống như lời ngài dạy dỗ các con: “Si vous ne pouvez pas être de bon Vietnamien, soyez de bien Francais” (Nếu các con không thể là người Việt Nam tốt thì hãy là người Pháp tốt.)”

Dòng máu hoàng tộc nước Nam vẫn chảy

Vào năm 2014, đài RFI (6) đã đăng một bài phỏng vấn cô Amandine Dabat, cháu năm đời của vua Hàm Nghi đang làm luận văn tiến sĩ về cuộc đời và sự nghiệp của vua Hàm Nghi tại đại học Sorbonne-Paris 4. Lịch sử dường như còn tiếc thương vị vua nước Việt, và hồn Việt Nam như còn phảng phất tại kinh đô Paris.

Các thành viên hậu duệ gia đình vua Hàm Nghi đã từng tới du lịch Việt Nam với mong muốn khám phá quê hương tổ tiên mình. Bản thân Amandine Dabat là người sống tại Việt Nam lâu nhất, khoảng 18 tháng, để phục vụ luận văn nghiên cứu của cô. Tuy nhiên, hậu duệ vua Hàm Nghi vẫn giữ di hài ông yên nghỉ tại Dordogne, Pháp để họ có thể dễ dàng đến viếng mộ tổ tiên.

Tỉnh Dordogne còn được gọi là Périgord, cái tên cổ bắt nguồn từ người Gaulois “Pétrocores”, có nghĩa là dân tộc của Bốn Đạo Quân. “Périgord bây giờ được chia làm bốn vùng nhỏ, mang tên tương ứng với sản phẩm đặc trưng cho từng vùng. Périgord Vert, ở phía Bắc, xanh màu rừng dẻ. Périgord Blanc ở trung tâm, trắng màu vách đá vôi. Périgord Purpre ở phía Tây Nam, tím màu rượu vang và lá nho mùa thu. Périgord Noir, phía Đông Nam, đen màu rừng sồi âm u và màu nấm truffe. Tôi hình dung vị vua An Nam đáng kính đang mỉm cười giữa bốn màu dịu dàng của Dordogne.

Khiêm Từ
(Tổng hợp và biên soạn)

Cổ nhân thường nói “tích đức, thất đức” – Đức ấy là gì?

Categories: Chính-Trị Thời-Sự | Leave a comment

Ông Trump, bầu cử Mỹ và cách nhìn qua bức màn kiểm duyệt ở VN

Ông Trump, bầu cử Mỹ và cách nhìn qua bức màn kiểm duyệt ở VN

  • Luật sư Ngô Ngọc Trai
  • Gửi tới BBC News Tiếng Việt từ Hà Nội
Headshots of Joe Biden and Donald Trump under a drawing of the White House

Việc bầu cử Tổng thống Mỹ và khả năng thắng cử của ông Trump ra sao thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều người dân Việt Nam.

Tuy nhiên, do ở Việt Nam truyền thông sách báo bị kiểm duyệt cho nên nhiều người không có đủ thông tin chính xác về chính trường nước Mỹ.

Khó dự đoán

Thông tin đến với người Việt Nam lâu nay cho rằng ông Trump cư xử thô lỗ chợ búa, hủy hoại phép tắc ngoại giao, suy đồi đạo đức nhân cách người lãnh đạo, cho rằng ông Trump là một sự đột xuất sai lầm của cử tri Mỹ và đã đến lúc đưa mọi thứ trở lại bình thường.

Người ta muốn thấy lại những phép tắc ngoại giao được tôn trọng, muốn thấy lại ngôn ngữ lãnh đạo chính trị lịch thiệp.

Nhưng tôi cho rằng tính cách đó của ông Trump không phải là mới phát sinh từ khi ông làm tổng thống, kiểu thái độ cư xử của ông Trump với các vấn đề không gây ngạc nhiên bất ngờ với công chúng Mỹ.

Thực chất con người của ông Trump trước và sau khi làm Tổng thống là một, vẫn con người đó, vẫn tính cách đó và không giấu giếm. Ông Trump có cả một quãng thời gian dài làm truyền thông, tính cách của ông ấy ra sao người Mỹ đã biết và họ vẫn bầu chọn cho ông ấy.

Cho nên những ai ở Việt Nam nghĩ rằng tính cách và lối cư xử của ông Trump như vậy sẽ khiến ông ấy thất bại thì nên suy nghĩ lại.

Ngược lại với đó, tôi cho rằng có khả năng cao hơn cử tri Mỹ sẽ tiếp tục bầu cho ông Trump làm tổng thống.

Bởi lẽ một nhiệm kỳ đã qua, bốn năm, thời gian đó không đủ dài để có thể xử lý một vấn đề lớn như thâm hụt thương mại với Trung Quốc, không đủ thời gian để hành động đủ để đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại.

2016 Republican convention

Chụp lại hình ảnh,Hình ảnh đại hội đảng Cộng hòa hồi 2016

Bốn năm qua điều quan trọng nhất chính phủ của ông Trump đã làm được chính là chỉ ra, thuyết phục và đạt được sự chấp nhận rộng rãi về mối tai hại trong quan hệ thương mại của Mỹ với Trung Quốc.

Việc này được thực hiện khởi đầu không lâu trước khi tranh cử. Nên nhớ lúc đó quan điểm tranh cử của bà Hillary Clinton vẫn na ná như chính sách dưới thời Obama. Chính trường nước Mỹ lúc đó có lẽ chỉ có một dòng chảy truyền thông thông tin về vấn đề thương mại với Trung Quốc xuất phát từ nhóm tranh cử của ông Trump. Tuy ban đầu là mới và nhỏ nhưng nó đã sớm trở thành vấn đề cử tri quan tâm nhất.

Cho nên quãng thời gian bốn năm là không đủ để đạt được cái mục tiêu mà người Mỹ bốn năm trước đã nhận ra tính quan trọng và bầu cho ông Trump làm tổng thống. Người Mỹ hiểu điều đó, với nhận thức duy lý và tư duy logic họ sẽ thấy điều đó và khả năng cao là họ sẽ cho ông Trump thêm thời gian để hoàn tất chương trình của mình.

Kiểm duyệt sách

Reuters

Chụp lại hình ảnh,Bà Hillary Clinton đã dẫn điểm xa trước đối thủ trong cuộc đua vào Nhà Trắng hồi 2016, nhưng ông Donald Trump lại là người giành chiến thắng cuối cùng

Thời điểm tranh cử năm 2016, cả hai ứng viên gồm bà Hillarry Cliton và ông Donald Trump đều cho xuất bản những cuốn sách để giới thiệu các đề xuất chính sách cũng như quan điểm của họ về các vấn đề xã hội Mỹ, để qua đó hai ứng viên kỳ vọng nhận được sự ủng hộ của cử tri.

Cuốn sách của ông Trump có tiêu đề “Đã đến lúc phải cứng rắn để khôi phục lại sự vĩ đại của nước Mỹ”, còn cuốn của bà Hillary có tiêu đề “Bí mật quốc gia và sự hồi sinh”.

Tôi đã đọc cả hai cuốn sách này sau ngày ông Trump đã giành phần thắng và chợt nhận ra vì sao kết quả lại như vậy.

Đó là cuốn sách của ông Trump mỏng, ngắn, rõ ràng dễ hiểu, sử dụng nhiều ngôn ngữ đường phố, đưa ra nhiều quan điểm thẳng thắn về chính sách đối nội đối ngoại. Trong khi cuốn sách của bà Hillary thì dày gấp đôi gấp ba, chia sẻ quá nhiều các dữ kiện chi tiết về đời sống Nhà Trắng, về các hoạt động của nhân vật.

Tôi đánh giá cuốn sách của bà Hillary mang tính hàn lâm dành cho người có trình độ cao, nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu về hoạt động của Nhà Trắng, trong khi cuốn sách của ông Trump nói rõ ràng về các quan điểm chính sách, dễ hiểu và dễ tiêu hóa hơn cho công chúng bình thường.

Kết quả là ông Trump thắng cử cho thấy những cuốn sách hẳn cũng là một lý do đưa đến.

Không chỉ thế, theo tôi những cuốn sách có vai trò rất quan trọng đối với các nhà lãnh đạo, bởi đó là cách để truyền tải đến công chúng các vấn đề quốc gia.

Các nhà lãnh đạo nhìn thấy được các xu hướng, các khuynh hướng, các dòng chảy chủ lưu trong đời sống xã hội giữa bề bộn các vấn đề sự kiện. Bằng cách chia sẻ tầm nhìn khát vọng và lộ trình kế hoạch, nhà lãnh đạo giao tiếp với công chúng và xác lập vị thế của người dẫn dắt.

Nhưng rất tai hại là ở Việt Nam lâu nay vẫn đang duy trì tình trạng kiểm duyệt xuất bản. Đối với những đầu sách không phù hợp với quan điểm đường lối của nhà nước thì sẽ không được cấp giấy phép.

Điều này khiến cho một trong những đầu sách rất quan trọng với đường lối tranh cử của ông Trump đã không đến được với công chúng Việt Nam.

Đó là cuốn của tác giả Peter Navarro có tiêu đề Death by China, bản dịch sang tiếng Việt có tiêu đề Chết bởi Trung Quốc, được in lậu và bán chui ở Việt Nam.

Cuốn sách này được tác giả Peter Navarro công bố xuất bản từ năm 2011. Khi đó và trong nhiều năm về sau Việt Nam vẫn giữ mối quan hệ hữu hảo với Trung Quốc cho nên đầu sách này được cho là không phù hợp với đường lối đối ngoại, nên đã bị kiểm duyệt không được xuất bản trong nước.

Nội dung cuốn sách hướng đến người Mỹ và phơi bày rất nhiều vấn đề về mối quan hệ với Trung Quốc, từ thâm hụt mậu dịch, thao túng tiền tệ, gián điệp thương mại, trộm cắp công nghệ, sự lớn mạnh của hải quân Trung Quốc và những cạnh tranh trong không gian.

Rất nhiều nội dung đã trở thành chính sách của Tổng thống Trump và thực tế là sau khi trúng cử ông Trump đã bổ nhiệm tác giả làm Giám đốc Hội đồng Thương mại Quốc gia của Nhà Trắng, có chức năng tư vấn các chính sách cho chính phủ.

Việc cuốn sách này và nhiều đầu sách khác bị kiểm duyệt không được cấp phép xuất bản chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến lượng thông tin kiến thức của người Việt Nam về chính trường nước Mỹ.

Thiếu thông tin

Do sách báo bị kiểm duyệt cho nên lượng thông tin đến với người Việt trong nước không đầy đủ. Bởi vậy nhiều người thấy khó hiểu vì sao ông Trump hay có lời lẽ công kích thóa mạ giới truyền thông báo chí Mỹ.

Ở đây, phải thừa nhận bốn năm qua ông Trump đã làm cái việc rất ít người làm là gây sự chỉ trích hầu hết các tờ báo lớn của Mỹ.

Lý do vì sao? Đó có phải là do ông Trump không biết cách xây dựng quan hệ với báo giới hay bản tính dị dạng của ông với truyền thông?

Cần hiểu rằng 50 năm qua nước Mỹ chỉ có một đường lối thân thiện thương mại với Trung Quốc. Một đường lối như vậy không đứng trên chân không. Đường lối đó được xác lập thực hiện bởi chính các chuyên gia, các tờ báo, các cây viết hàng đầu của Mỹ.

Trong cuốn sách Death by China, tác giả Peter Navarro đã đưa ra hàng loạt cáo buộc đối với các tờ báo hàng đầu nước Mỹ như The New York Times, Wall Street Journal, Finance Times và Tuần báo Economist, vì có cùng khuynh hướng làm ngơ trước những thủ đoạn mậu dịch bất chính của Trung Quốc do sợ rằng việc trấn áp có thể làm suy yếu chế độ tự do mậu dịch toàn cầu.

Nhiều cây bút hàng đầu cũng bị cáo buộc chống lại những người đang thúc đẩy cải cách thương mại, ví như Thomas Friedman, biên tập viên kỳ cựu về chuyên mục ngoại giao và kinh tế của tạp chí New York Times, tác giả của cuốn sách nổi tiếng Thế Giới Phẳng.

Và rất nhiều tờ báo và chuyên gia tương tự.

Đường lối thân thiện với Trung Quốc là một lối lớn đã được bệ đỡ bởi những nhân vật lớn. Biết bao chủ doanh nghiệp trở lên giàu có nhờ làm ăn ở thị trường Trung Quốc.

Khi ông Trump đảo ngược đường lối đó thì mặc nhiên ông phải đối mặt với những người đó và những tờ báo lâu nay đi theo đường lối đó cho là đúng.

Nếu ông Trump không công kích họ thì họ cũng sẽ công kích ông Trump, đó là tất yếu và đã xảy ra.

Có điều lâu nay báo chí chỉ trích tổng thống thì đã là điều bình thường rồi còn khi Tổng thống ra mặt chỉ trích lại các báo thì nhiều người Việt thấy lạ mà thôi.

Song người Mỹ vốn có mặt bằng nhận thức cao và họ hiểu rõ về các lối sinh hoạt vận động chính sách. Nếu cử tri Mỹ coi đường lối mới của ông Trump là đúng thì họ sẽ hiểu vì sao ông ấy đôi co và cáo buộc báo chí Mỹ với những ngôn từ thóa mạ.

Và người Việt Nam nếu đọc được cuốn sách của tác giả Peter Navarro thì sẽ hiểu được vì sao ông Trump lại có quan điểm với báo chí như vậy.

Ngày bầu cử Tổng thống Mỹ sẽ diễn ra vào ngày 3/11. Kết cục chưa biết thế nào nhưng từ nay đến đó nhiều người Việt Nam sẽ vẫn dành sự quan tâm cho bầu cử Mỹ.

Bài thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả, một luật sư đang làm việc tại Hà Nội.

Categories: Tin-Tức Thế-Giới | Leave a comment

Create a free website or blog at WordPress.com.