Nhan dinh

DUC HUỲNH PHÚ SỔvà Phật Giáo Thời Ðại

…… …. .. . .Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔvà Phật Giáo Thời ÐạiLê Hiếu Liêm Viện Tư Tưởng Việt Phật Hoa Kỳ 1995tái bản lần thứ hai 2001 Kính tặng những người mang tâm hạnh Bồ Tát tùy thuận phụng sự chúng sanh đã hy sinh tự do và thân mạngcho lý tưởng cứu khổ cứu nạn con dân và đất nước Việt Nam thân yêu. Viện Tư Tưởng Việt PhậtChuyển luân chánh pháp vào thời đại,chính sách quốc gia & đời sống quốc dân.Mục LụcChương Một: Việt Nam và Phật Giáo đầu Thế Kỷ 20.Chương Hai: Tư  Tưởng Phật Học Của Thiền Sư Thích Thiện Chiếu.A/ Cuộc đời và hành trạng của thiền sư Thích Thiện Chiếu.B/ Tư tưởng Phật học của thiền sư Thích Thiện Chiếu và các bạn cùng lý tưởng.a/ Bác bỏ Thượng Đế.b/ Bác bỏ thuyết linh hồn bất tử.c/ Bác bỏ quan niệm thiên đàng, niết bàn.d/ Thuyết vô ngã.1/ Mâu thuẩn của niết bàn.2/ Mâu thuẩn nhân quả. Chương Ba: Cuộc đời của Huỳnh Phú Sổ.A/ Cuộc đời thanh thiếu niên.B/ Cuộc đời hành đạo.C/ Những năm tháng bị quản thúc, lưu đày.D/ Thời gian sống ở Sài Gòn và đi khuyến nông tại miền Tây.E/ Quê hương bừng dậy trong cách mạng và kháng chiến.F/ Dấn thân hoạt động cách mạng kháng chiến cứu quốc.G/ Những ngày cuối cùng của Huỳnh Phú Sổ.H/ Các tác phẩm của Huỳnh Phú Sổ. Chương Bốn: Nguồn Gốc Lịch Sử, Bối Cảnh Chính Trị Và Truyền Thống Tâm Linh.A/ Công cuộc Nam tiến.B/ Cuộc kháng chiến chống Pháp.C/ Truyền thống Đạo Pháp và Dân Tộc. Chương Năm: Tinh Hoa Tư Tưởng Phật Học Và Phương Thức Chấn Hưng Phật Giáo Của Huỳnh Phú Sổ.1/ Phương pháp luận của Huỳnh Phú Sổ.2/ Hình thức giảng đạo.3/ Đối tượng hoằng pháp.4/ Phương thức cứu độ.5/ Tinh yếu tư tưởng Huỳnh Phú Sổ. Chương Sáu: Cuộc Cách Mạng Tôn Giáo Của Huỳnh Phú Sổ.1/ Khuyến khích tu hành theo đạo Phật.2/ Bài trừ mê tín dị đoan.3/ Việt hóa nghi thức thờ phượng.4/ Đề cao vai trò của người Phật tử tại gia.5/ Áp dụng thuyết tứ ân, đưa đạo Phật vào đời.6/ Đưa đạo Phật vào thời đại.7/ Hình thành một tôn giáo dân tộc. Chương Bảy: Con Đường Hành Động Phật Giáo Qua Hành Trạng Của Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ.A/ Tranh đấu cho độc lập, thống nhất, hòa giải và đoàn kết dân tộc.B/ Nổ lực đoàn kết, thống nhất Phật giáo. Chương Tám: Nội Dung Phật Pháp Của Phật Giáo Hòa Hảo.– Đường trung đạo.– Chư Phật có bốn đại đức.– Tam nghiệp và thập ác.1/ Sát sanh.2/ Đạo tặc.3/ Tà dâm.4/ Lưỡng thiệt.5/ Ỷ ngôn.6/ Ác khẩu.7/ Vọng ngữ.8/ Tham lam.9/ Sân nộ.10/ Mê si. – Sơ giải về tứ diệu đế.– Luận về bát chánh.1/ Chánh kiến.2/ Chánh tư duy.3/ Chánh nghiệp.4/ Chánh tinh tấn.5/ Chánh mạng.6/ Chánh ngữ.7/ Chánh niệm.8/ Chánh định. – Cư sĩ Huỳnh Phú Sổ và danh tăng Narada Maha Thera.- Thập nhị nhơn duyên.- Môn hoàn diệt.- Đức Phật đối với chúng sanh.- Lời khuyên bổn đạo.- Trong việc tu thân xử kỷ. Chương chín: Hình Thức Tín Ngưỡng Của Phật Giáo Hòa Hảo.A/ PGHH là một tông phái Phật giáo tu hành tại gia.B/ Hình thức thờ phượng, lễ bái, cầu nguyện.- Thờ phượng.- Hành lễ.- Tang lễ.- Hôn nhân.- Những điều cấm làm.- Đối với các tôn giáo và nhân sanh.- Điều kiện vo đạo.- Sự cúng lay của người cư sĩ tại gia. C/ Tám điều răn cấm.- Lời khuyên bổn đạo. Chương Mười: Thi Kệ Của Huỳnh Phú Sổ.– Thi kệ của Huỳnh Phú Sổ và thi kệ của Nhất Hạnh.- Huỳnh Phú Sổ là một phần mầu nhiệm của chúng ta. Phụ Lục.– Nhận định Tình Hình Tôn Giáo Tại Việt Nam của tác giả.- Đức Huỳnh Giáo Chủ Như Là Một Triết Gia Việt Nam của Học Giả Phạm Công Thiện.- Huỳnh Phú Sổ Và Chúng Ta của Tiến Sĩ Lý Khôi Việt.  Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ Và Phật Giáo Thời Đại là một tác phẩm sử học và Phật học nên tác giả đã không thể viết khác hơn về một số sự thật lịch sử và một số nhận định, phê bình. Lịch sử là lịch sử. Và tự do tư tưởng là quyền tự do căn bản nhất, thiêng liêng nhất của mọi con người trong thế giới văn minh ngày nay.Tác giả hoan nghênh và sẵn sàng thảo luận với bất cứ ai về bất cứ vấn đề gì được nêu lên trong tác phẩm nầy. * Các hình của Huỳnh Phú Sổ được chụp lại từ trong cuốn Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc của Nguyễn Long Thành Nam. Viện Tư Tưởng Việt PhậtP.O Box 915Danville, CA 94526. USA  Tác Giả & Tác Phẩm * Tác giả Lê Hiếu Liêm sinh năm 1952 tại Huế, tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa đại Học Sài Gòn năm 1974 và Tiến Sĩ Luật Khoa, chuyên ngành về Luật Các Tổ Chức Quốc Tế Và Bang Giao Kinh Tế Quốc Tế, đại Học Sorbonne năm 1978, sáng lập Tạp Chí Khai Phóng (1981), báo Thanh Niên Hành động (1984), báo The Berkeley Times (1986), Viện Tư Tưởng Việt Phật (1990), Tạp Chí Bông Sen (1991) và Trường Phật Học Lý Trần (1991).Trong hơn hai thập niên qua, tác giả đã hoàn thành các tác phẩm sau đây:- Ý Thức Hệ Của Các Quốc Gia Đang Phát Triển (1970),- Chiến Tranh Việt Nam Và Luật Quốc Tế (1973),- Hợp Tác Và Hội Nhập Tại Đông Nam Á (1976),- Việt Nam Và Hoa Kỳ Trong Thời đại Mới 1976-2000 (1976),- Bản Điều Trần Nguyễn Trường Tộ Mới (1977),- Khía Cạnh Pháp Lý Và Thực Tế Của Sự Giao Thương Nga-Mỹ (luận án tiến sĩ, 1978),- Việt Nam Tranh Đấu Sử Luận (1980),- Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo (1981). Tác giả đã viết trên 200 bài nghiên cứu, tham luận, bình luận, phóng sự, bút ký… dưới các bút hiệu khác nhau, về các vấn đề Phật Giáo, Phật Học và Đất Nước, được đăng tải trên các tạp chí Phật Giáo Việt Nam, Khai Phóng, Giao Điểm, Hoa Sen, Bông Sen, Bông Sen Âu Châu… và được trích đăng lại trong nhiều tờ báo khác.Tác giả Lê Hiếu Liêm là chủ biên của bộ Phật Học Lý Trần, Khóa Căn Bản (Năm thứ nhất Cao Đẳng Phật học), Khóa Trung Cấp (Năm thứ hai Cao Đẳng Phật học) và Khóa Cao Cấp (năm thứ ba Cử Nhân Phật học) tổng cộng 6.000 trang.Ngay từ tác phẩm đầu tiên “Ý Thức Hệ Của Các Quốc Gia đang Phát Triển”, được viết khi 18 tuổi, tác giả đã đề nghị lấy Phật Giáo để dung hòa, hóa giải các nguồn ý thức hệ đang tàn phá Việt Nam và làm chủ đạo văn hóa-chính trị mới cho Việt Nam.Lời kêu gọi này tiếp tục được đưa ra trong Bản Điều Trần gởi các nhà lãnh đạo Việt Nam, được viết khi 24 tuổi, và được tác giả mang đến trao cho phái đoàn Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đang công du tại Pháp trong năm 1977.Thông điệp giải cứu và quang hưng đất nước trong tinh thần khoan dung, khai phóng, từ bi và trí tuệ của đạo Phật, đồng thời cũng là của truyền thống văn hóa dân tộc và của thời đại, được tác giả tiếp tục khẳng định trong hầu hết các tác phẩm được viết từ suốt 20 năm qua. * Tác phẩm Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ Và Phật Giáo Thời Đại được viết từ cuối năm 1994 và hoàn thành, quyển một, vào tháng tư năm 1995. Đây là quyển đầu tiên của bộ sách ba cuốn viết về Huỳnh Phú Sổ. Quyển một giới thiệu cuộc đời – tư tưởng Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ và nội dung giáo lý – hình thức tín ngưỡng của Phật Giáo Hòa Hảo, như một tông phái Phật giáo được Việt hóa và hiện đại hóa. Quyển hai so sánh Huỳnh Phú Sổ và các vị giáo chủ khác, cùng đối chiếu Phật Giáo với các tôn giáo khác, đây là một bản tổng kết và đánh giá di sản tôn giáo của dân tộc và nhân loại. Quyển ba trình bày những tiên đoán về tương lai của các tôn giáo và của Phật Giáo Việt Nam, và đưa ra những đề nghị để xây dựng một nền Phật Giáo Thời đại trong Thời đại Phật Giáo, là thế kỷ 21 sắp đến. “Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ đã đưa lịch sử vượt qua tương lại, đã nối liền Đạo Pháp với Dân Tộc, và đã đến hiện đại từ truyền thống. Ý thức  mới trong văn hóa, tôn giáo và chính trị của Ông vẫn còn rực sáng để đánh thức chúng ta, dẫn đường cho thời đại, cho sinh mệnh Việt Nam và tương lai Phật Giáo Việt Nam. Tất cả chúng ta, những ai vẫn còn mang trong trái tim truyền thống văn hóa và tâm linh của dân tộc, chính là hóa thân của Huỳnh Phú Sổ, của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung, của Khuông Việt, Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn.Huỳnh Phú Sổ bất tử.Vì sự nghiệp của ông chính là sự nghiệp Phật Giáo.Vì sự nghiệp của ông chính là sự nghiệp Việt Nam.Vì Huỳnh Phú Sổ đã trở thành một phần mầu nhiệm của Việt Nam, của Phật Giáo, của mỗi chúng ta…”   |Muc Luc| |Ch.1| |Ch.2| |Ch.3| |Ch.4| |Ch.5| |Ch.6| |Ch.7| |Ch.8| |Ch.9| |Ch.10|TK|[BHH430] [PGHH] [THƯ VIỆN PGHH 
HOMEGIỚI THIỆU TỔNG QUÁTHỌC TRÌNHHỘI ÐỒNG GIẢNG HUẤNTHƯ VIỆNSINH VIÊN VỤBẢN TIN PHV
For any questions, send Email to:  phvpghh@aol.com
Copyright © 2003. PhatHocVienPGHH. All rights reserved.
Advertisement
Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Tâm rộng lượng bao nhiêu, phúc báo lớn bấy nhiêu

San San | DKN 4 giờ trước 667 lượt xem

Tâm rộng lượng bao nhiêu; phúc báo lớn bấy nhiêu
Ảnh: Shutterstock.

Mục lục bài viết

Cổ nhân có câu “Trong bụng của tể tướng có thể chèo thuyền”. Người có tấm lòng rộng lớn có thể bao dung cả thiên hạ, chính là nói làm người thì phải có sự độ lượng, tấm lòng rộng mở…

Núi không nói mình cao, biển không nói mình sâu, nhưng ai cũng biết sự cao và sâu của chúng. Vậy mới nói, muốn cảm hóa người khác thì cần có lòng nhân từ độ lượng vậy.

Câu chuyện thứ nhất: A hoàn cũng là con người

Dương Vạn Lý là một thi nhân nổi tiếng thời Nam Tống. Vợ của ông gọi là La phu nhân. Năm đó bà đã hơn 70 tuổi. Mùa đông giá rét, La phu nhân thức dậy từ rất sớm, xuống bếp nấu cơm cho gia nhân và những người giúp việc ăn, sau đó mới để họ làm việc.

Thấy vậy, con của La phu nhân đã ra sức khuyên can, nói: “Trời lạnh như vậy, sao mẹ phải tự làm khổ mình? Mẹ gọi người hầu đi làm, để mẹ ngủ thêm một chút có tốt hơn không?”.

La phu nhân nghe xong lời khuyên của con thì ôn tồn nói: “A hoàn hay nô bộc cũng đều là con người, có cha mẹ sinh ra, cũng là con cái nhà người ta đấy con à. Sáng sớm, trời rét, mẹ thức dậy nấu cơm để họ có thể ăn cho ấm bụng, sau đó làm việc mới tốt”.

Câu chuyện thứ hai: “Lòng nhân từ như vậy, tương lai mới có thể làm Tể tướng

Phạm Trọng Yêm là người Bắc Tống. Năm ông được hai tuổi thì cha mất. Mặc dù tuổi nhỏ sống trong cảnh nghèo khó nhưng ông lại vô cùng chăm chỉ học tập, về sau đỗ đạt làm quan tới chức Tể tướng. 

Thời niên thiếu vì gia đình rất nghèo nên Phạm Trọng Yêm phải sống trong hoàn cảnh bần hàn cần kiệm. Mỗi ngày ông chỉ được uống một chút canh rau dại. Tuy nhiên, Phạm Trọng Yêm lại là một người đầy tài năng, mong nguyện lấy việc coi sóc thiên hạ là trách nhiệm của mình. 

Một lần, Phạm Trọng Yêm đến gặp một vị thầy tướng số và hỏi: “Tương lai cháu có thể làm Tể Tướng không?”.

Vị thầy tướng số liếc nhìn Phạm Trọng Yêm rồi trả lời: “Không thể”. 

Phạm Trọng Yêm lại hỏi tiếp: “Vậy cháu có thể trở thành một thầy thuốc giỏi không?”.

Cảm thấy kinh ngạc trước câu hỏi, vị thầy tướng số hỏi: “Vì điều gì mà cháu đặt ước muốn đầu tiên cao như vậy, còn ước muốn thứ 2 lại thấp như thế?”.

Phạm Trọng Yêm giải thích: “Cháu nghĩ rằng, chỉ có làm hai nghề này cháu mới có thể giúp đỡ được tất cả mọi người”. 

Thấy vậy, thầy tướng số nhìn cậu bé Phạm Trọng Yêm một cách cẩn thận, sau đó khen ngợi nói: “Cháu có tấm lòng nhân từ như vậy, thực đúng là Tể tướng tương lai rồi”. 

Câu chuyện thứ ba: Người giàu trả hết nợ, nhà tù trống rỗng

Tôn Giác là người thời Bắc Tống, tên chữ là Sân Lão. Lúc ông làm quan phủ Phúc Châu, có rất nhiều người dân trước đây từng vì thiếu nợ thuế ruộng mà bị quan phủ tiền nhiệm bắt nhốt vào ngục. 

Tới khi Tôn Giác về nhậm chức, một số người giàu trong quận định quyên 500 vạn đồng và thỉnh cầu ông sửa chữa đình chùa. Tôn Giác liền nói với họ như sau: “Mọi người góp tiền sửa chữa đình chùa với mong muốn làm chút việc thiện, tích chút công đức, hy vọng có được phúc báo. Tuy nhiên, đình chùa cũng không có hư hỏng gì nghiêm trọng, trước mắt chưa cần sửa chữa vội. Ta khuyên mọi người dành số tiền này trả nợ thuế giúp một số người dân đang bị giam giữ trong ngục, để họ thoát khỏi cảnh tù tội và thống khổ xiềng xích. Mọi người làm được việc thiện như vậy, Phật tổ biết được cũng sẽ mỉm cười ban phúc, như thế chẳng phải là mọi người sẽ nhận được nhiều phúc đức hơn sao?”.

Những người quyên tiền nghe thấy lời nói của Tôn Giác có tình có lý, liền đưa tiền cho quan phủ để xóa nợ thuế cho dân nghèo. Nhờ vậy mà ngục giam không còn tội phạm.

Theo Epoch Times 
San San biên dịch

Có thể bạn quan tâm:

Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Thành công nhờ nhẫn nhịn, đức hạnh nhờ bao dung

Nguyện Ước 28/10/2020 1,333 lượt xem

Ảnh: shutterstock

Nhẫn nhịn và bao dung là cái gốc trong đối nhân xử thế; là cốt lõi trong hành trình tu dưỡng đạo đức của con người

Nhẫn nhịn mang lại nhiều điều tốt lành

Người xưa nói “Không nhẫn nhịn được việc nhỏ sẽ làm hỏng việc lớn”. Ai làm nên việc lớn xưa nay đều có phẩm chất nhẫn nại. Trong đời sống thường nhật, các bậc hiền nhân minh triết thời xưa đều xem trọng chữ “nhẫn”. Những người tài đức đời sau cũng thường đặt chữ nhẫn lên hàng đầu trong triết lý sống của mình.

Trong đối nhân xử thế, nhẫn nhịn có thể hoá giải mọi mâu thuẫn, xung đột. Nhưng nếu chỉ nhẫn trên bề mặt mà trong tâm còn uất hận, uỷ khuất thì vẫn chưa phải là cái nhẫn đích thực. Có thể làm được nhẫn chính là dựa vào tấm lòng bao dung, nhân ái vị tha. Người bao dung không so đo thiệt hơn, có thể đạt tới cảnh giới vô tư, vô ngã.

Trong nhân gian rất khó có thể tìm được người mà trong thiên hạ không có kẻ thù; nhất là với những người giữ trọng trách lớn. Một người có phẩm chất cao thượng, không hẹp hòi mà luôn bao dung thì có thể đạt được sự nghiệp lẫy lừng. 

Có những câu chuyện người thật việc thật nhờ có sự nhẫn nhịn mà làm nên việc lớn từng được lưu truyền. Ví dụ như câu chuyện về vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ – Abraham Lincoln.

Thời bấy giờ, xã hội Mỹ rất coi trọng yếu tố danh gia vọng tộc. Phần lớn Thượng nghị sĩ Mỹ xuất thân trong những gia đình quyền quý, thuộc giới thượng lưu. Còn Abraham Lincoln lại xuất thân trong một gia đình thợ giày. Chính vì điều này mà khiến nhiều người dân Mỹ cảm thấy không hài lòng, thậm chí là khó chấp nhận về thân thế của vị Tổng thống mới đắc cử.

Một chuyện đã xảy ra trong lễ nhậm chức Tổng thống của Abraham Lincoln. Một nghị sĩ đã chen vào giữa bài diễn văn, nói: “Thưa ông Lincoln, đừng quên rằng cha ngài thường đóng giày cho gia đình tôi”. Các nghị sĩ cười ầm lên vì nghĩ rằng họ đã biến Lincoln thành trò hề.

Tuy nhiên, khi tiếng cười vừa dứt, Tổng thống Lincoln không cao ngạo, cũng không tự ti mà chân thành nói: “Thưa ngài, tôi biết rằng cha tôi đã đóng giày cho gia đình ngài, cũng như nhiều gia đình các nghị sĩ khác… bởi vì không người thợ nào có thể làm được như ông. Ông là một người sáng tạo. Giày của ông không chỉ là giày, ông đã đặt cả tâm hồn vào nó”.

“Tôi muốn hỏi các ngài rằng, các ngài đã từng phàn nàn về giày của ông chưa? Bản thân tôi cũng biết cách đóng giày; nếu các ngài có phàn nàn gì, thì tôi có thể đóng cho các ngài một đôi giày khác. Nhưng theo tôi thấy thì chưa có ai phàn nàn về những đôi giày mà cha tôi đóng. Ông là một thiên tài, một nhà sáng tạo, và tôi tự hào vì cha tôi!”.

Cả khán phòng lúc đó trùm trong một không gian tĩnh lặng bất ngờ. Các nghị sĩ nhận ra họ chưa hiểu gì về vị Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ. Lincoln tự hào về người cha đóng giày, vì chưa ai từng phàn nàn về những “tác phẩm” của ông. Và mặc dù đã đắc cử Tổng thống, Lincoln vẫn sẵn sàng tự tay đóng một đôi giày.

 Abraham Lincoln và gia đình những năm 1860. (Ảnh: shutterstock)

***

Người xưa quan niệm rằng tài phú, danh dự, địa vị… là những thứ bên ngoài, đức hạnh mới là căn bản, là cái gốc của một con người.

Đức dày có thể nâng đỡ vạn vật; nói cách khác, người có tài phú thường do đức dày. Tạo hóa ban cho một người hay một quốc gia bao nhiêu lợi ích là dựa vào việc họ có bao nhiêu đức hạnh. Một trong những nhân tố tạo nên sự đức hạnh cho con người, đó chính là lòng nhẫn nhịn, sự bao dung.

Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Dị tượng liên tiếp ở Trung Quốc: Vì sao chính quyền gây tội dân lại chịu họa?

Thuần Dương | DKN 03/07/2020 30,012 lượt xem

Mục lục bài viết

Là đại nạn hay cơ hội cho người dân Trung Quốc thức tỉnh, nhận ra bản chất của thể chế đang dẫn dắt mình?

Đại họa, dị tượng liên tục xảy ra

Bắt đầu năm Canh Tý 2020 bằng sự bùng phát đại dịch viêm phổi Vũ Hán, dịch hạch, mưa đá, lốc xoáy, 6 tháng sau, mùa mưa bão năm nay ở Trung Quốc cũng bắt đầu một cách thật khác thường.
Cảnh báo lũ lụt đã đưa ra ngày thứ 31 liên tiếp kể từ 2/6. Theo báo cáo của CCTV, tính đến 26/6, 26 tỉnh, thành ở Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Số người bị ảnh hưởng lên tới 13,74 triệu người, số người chết, mất tích là 81, số người phải di tản và tái định cư khẩn cấp là 744.000 và hơn 10.000 ngôi nhà bị sập. Thiệt hại kinh tế là 27,8 tỷ nhân dân tệ. Tuy nhiên, do lịch sử che giấu thông tin của chính quyền Trung Quốc, ngoại giới vẫn đang nghi ngờ về con số thương vong thực tế, theo Secretchina.

Thật kỳ lạ, mưa lũ tập trung quá nhiều vào các khu vực quanh dòng sông Dương Tử vĩ đại, nơi có con đập Tam Hiệp đầy tai tiếng.https://googleads.g.doubleclick.net/pagead/ads?client=ca-pub-2791219656443006&output=html&h=250&slotname=2391351179&adk=884465546&adf=3750602988&pi=t.ma~as.2391351179&w=300&lmt=1603421482&psa=1&guci=2.2.0.0.2.2.0.0&format=300×250&url=https%3A%2F%2Fwww.dkn.tv%2Fgoc-nhin-dkn%2Ftai-hoa-lien-tiep-o-trung-quoc-vi-sao-chinh-quyen-gay-toi-nhan-dan-lai-chiu-hoa.html&flash=0&wgl=1&tt_state=W3siaXNzdWVyT3JpZ2luIjoiaHR0cHM6Ly9hZHNlcnZpY2UuZ29vZ2xlLmNvbSIsInN0YXRlIjowfV0.&dt=1603428369944&bpp=72&bdt=11654&idt=1498&shv=r20201020&cbv=r20190131&ptt=9&saldr=aa&abxe=1&cookie=ID%3Da8d8f7104032e267-2222e89237c40057%3AT%3D1603236191%3ART%3D1603236191%3AS%3DALNI_MaoxOs68TqkN3Xt0rrp0UvOvqQ_Dw&correlator=8186713944541&frm=20&pv=2&ga_vid=1465405372.1508563676&ga_sid=1603428372&ga_hid=1422648363&ga_fc=0&iag=0&icsg=1048544&dssz=101&mdo=0&mso=0&u_tz=-420&u_his=6&u_java=0&u_h=768&u_w=1366&u_ah=728&u_aw=1366&u_cd=24&u_nplug=3&u_nmime=4&adx=188&ady=1425&biw=675&bih=329&scr_x=0&scr_y=600&eid=42530672&oid=3&pvsid=339666677082685&pem=855&ref=https%3A%2F%2Fwww.dkn.tv%2Fthe-gioi%2Fgiua-cang-thang-voi-trung-quoc-bo-tu-sap-tap-tran-chung.html&rx=0&eae=0&fc=896&brdim=0%2C0%2C0%2C0%2C1366%2C0%2C1366%2C728%2C683%2C328&vis=1&rsz=%7Co%7CoeEbr%7C&abl=NS&pfx=0&fu=8192&bc=31&ifi=1&uci=a!1&btvi=1&fsb=1&xpc=fIj8YH0R85&p=https%3A//www.dkn.tv&dtd=1755

Nói tai tiếng, bởi năm 2017, một báo cáo được đăng tải trên trang Futurism chỉ ra rằng, khối lượng nước khổng lồ tích trữ tại đập Tam Hiệp đủ để làm thay đổi chuyển động quay, làm lệch cực từ và biến đổi hình dạng vỏ Trái Đất. Năm 2019, một bức ảnh vệ tinh cho thấy đập bị cong, sau đó ông Vương Duy Lạc, chuyên gia thủy điện sống ở Đức đã tiến hành một nghiên cứu phát hiện, “các vấn đề an toàn và kỹ thuật nghiêm trọng của đập Tam Hiệp vượt xa ước tính ban đầu của tác giả”.

Có thể nói đập Tam Hiệp như quả bom hẹn giờ treo trên đầu dân Trung Quốc. Từ đó đến nay, vấn đề vỡ đập vẫn luôn được quan tâm, nhưng khi mùa mưa lũ năm 2020 bắt đầu một cách kỳ dị, chủ đề này càng trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết.

Có người đã bình luận, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) từng ví mình như lửa, sẽ thiêu rụi người biểu tình Hồng Kông, người Hồng Kông sau đó nhắn nhủ nhau “hãy là nước”. Giờ cả Thiên Địa dường như cũng đứng về phía người dân Hương Cảng, tập trung nước vào uy hiếp cái đập kia và hàng trăm triệu dân Trung Quốc.

Ngoài mưa lớn đến rất lớn, như chưa đủ áp lực lên quả bom hẹn giờ nằm giữa Trung Quốc, những trận động đất liên tục xảy ra gần đập Tam Hiệp cũng khiến giới quan sát nín thở lo lắng cho số phận người dân hạ lưu Trường Giang.

Cùng với đó là liên tiếp những dị tượng như mưa đá, tuyết rơi trái mua, giông lốc, vòi rồng, hiện tượng “một giây tối sầm, một giây giông tố”, cùng nguy cơ núi lửa 500.000 năm chưa hoạt động bỗng thức giấc ở phía Bắc, và khả năng bị xâm nhập bởi đàn châu chấu dài 7km từ phía Tây, Trung Quốc đang đối diện với nhiều nguy cơ một cách kỳ lạ.https://googleads.g.doubleclick.net/pagead/ads?client=ca-pub-2791219656443006&output=html&h=250&slotname=3868084373&adk=2050115159&adf=4083209426&pi=t.ma~as.3868084373&w=300&lmt=1603421482&psa=1&guci=2.2.0.0.2.2.0.0&format=300×250&url=https%3A%2F%2Fwww.dkn.tv%2Fgoc-nhin-dkn%2Ftai-hoa-lien-tiep-o-trung-quoc-vi-sao-chinh-quyen-gay-toi-nhan-dan-lai-chiu-hoa.html&flash=0&wgl=1&adsid=ChAI8NvE_AUQ2prrvI2pxaINEkgAN6-YxRi66ALErjXAEByx_IIpU5uXO5RF_Cwp6XrMgJIcZJbaLCDrKzov1JWVUquJszGXWc4A815Nndnq4dap3ve4xLz2q-c&tt_state=W3siaXNzdWVyT3JpZ2luIjoiaHR0cHM6Ly9hZHNlcnZpY2UuZ29vZ2xlLmNvbSIsInN0YXRlIjowfV0.&dt=1603428370016&bpp=33&bdt=11726&idt=2018&shv=r20201020&cbv=r20190131&ptt=9&saldr=aa&abxe=1&cookie=ID%3Da8d8f7104032e267-2222e89237c40057%3AT%3D1603236191%3ART%3D1603236191%3AS%3DALNI_MaoxOs68TqkN3Xt0rrp0UvOvqQ_Dw&prev_fmts=300×250%2C0x0&nras=1&correlator=8186713944541&frm=20&pv=1&ga_vid=1465405372.1508563676&ga_sid=1603428372&ga_hid=1422648363&ga_fc=0&iag=0&icsg=1048544&dssz=102&mdo=0&mso=0&u_tz=-420&u_his=6&u_java=0&u_h=768&u_w=1366&u_ah=728&u_aw=1366&u_cd=24&u_nplug=3&u_nmime=4&adx=188&ady=2672&biw=675&bih=329&scr_x=0&scr_y=1379&eid=42530672&oid=3&psts=AGkb-H8exgDorzv23MtDwIGmXQd41SOliNmVdNY1BKJ-82Y5zCuJEpd6JybV8JeGPaas&pvsid=339666677082685&pem=855&ref=https%3A%2F%2Fwww.dkn.tv%2Fthe-gioi%2Fgiua-cang-thang-voi-trung-quoc-bo-tu-sap-tap-tran-chung.html&rx=0&eae=0&fc=896&brdim=0%2C0%2C0%2C0%2C1366%2C0%2C1366%2C728%2C683%2C328&vis=1&rsz=%7Co%7CoeEbr%7C&abl=NS&pfx=0&fu=8192&bc=31&jar=2020-10-23-04&ifi=2&uci=a!2&btvi=2&fsb=1&xpc=G4Z2KBKeAk&p=https%3A//www.dkn.tv&dtd=70347

Nhiều người bình luận, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) quá tàn ác, trong lịch sử tồn tại của mình đã liên tục gây tội ác với chính nhân dân của mình và cả thế giới. Những cuộc thanh trừng Tam phản Ngũ phản; Cách mạng Văn Hóa; Vỡ đập Bản Kiều; Thảm sát Thiên An Môn; Kế hoạch sinh đẻ, Vu oan đàn áp, mổ cướp nội tạng Pháp Luân Công; Đàn áp, mổ cướp nội tạng người Duy Ngô Nhĩ, Tây Tạng; Che giấu đại dịch SARS; Nổ nhà máy hóa chất Thiên Tân; Tráo trở lật lọng với người Hồng Kông; Giấu giếm dịch bệnh với Thế giới… Vẫn biết nó gây ra biết bao tội ác tày trời, nhưng sao người dân Trung Quốc bị lừa dối và bị cai trị trong vô minh lại phải gánh chịu hậu họa đầu tiên?

Chẳng lẽ đạo Trời bất công?

Đạo Trời thể hiện trong văn hóa truyền thống của chính Trung Hoa vĩ đại đã từng có khái niệm, gọi là “cộng nghiệp”. Là nghiệp lực của cả cộng đồng tạo ra, vì vậy sẽ có hình thức trừng phạt chung, báo ứng cho tất cả những người làm trái với thiên lý. Đây có thể chỉ là một khái niệm chưa chứng minh được, nhưng nó cũng chỉ ra một quan sát tinh tế của người xưa, rằng dân tin theo quan một cách thiếu lý trí, đó cũng là một cái tội.

Dù có bị lừa dối bởi chính quyền, nhưng mau chóng tin theo, không dùng lý trí thanh tỉnh mà nhìn nhận vấn đề, còn về hùa với chính quyền giúp làm vững mạnh thêm sự bịa đặt, vu khống, nhân dân không thể nói mình là hoàn toàn vô tội.

Hoàng đế ra lệnh vô lý, quần thần phối hợp chặt chẽ, chính phủ gấp rút cổ xúy, bách tính nhiệt tình truy cứu, khiến lời nói dối và cuộc bức hại trái với thiên lý như được tiếp thêm sức mạnh. Nhân dân lẽ nào hoàn toàn vô tội?

Trong tác phẩm về Thiên văn học Dịch học: Ất Tỵ Chiêm của Lý Thuần Phong nhiều lần xuất hiện câu nói: “Lấy đặc xá, miễn xá để hóa giải thiên nạn”. Tại sao việc đặc xá thiên hạ, giải quyết án oan lại có thể hóa giải thảm họa. Liệu có phải nguồn gốc của một số loại thiên tai chính là sự trừng phạt của Thần với những án oan lớn tại nhân gian, vì vậy lấy ân xá để hóa giải án oan chính là giải quyết tận gốc của vấn đề, tự nhiên có thể hóa giải được thiên tai tương ứng? Tất nhiên Ất Tỵ Chiêm không nói trực tiếp nguyên nhân, vì người xưa hiểu rằng tiết lộ thiên cơ sẽ bị trời phạt.https://googleads.g.doubleclick.net/pagead/ads?client=ca-pub-2791219656443006&output=html&h=250&slotname=5344817570&adk=1359787238&adf=4044597235&pi=t.ma~as.5344817570&w=300&lmt=1603421482&psa=1&guci=2.2.0.0.2.2.0.0&format=300×250&url=https%3A%2F%2Fwww.dkn.tv%2Fgoc-nhin-dkn%2Ftai-hoa-lien-tiep-o-trung-quoc-vi-sao-chinh-quyen-gay-toi-nhan-dan-lai-chiu-hoa.html&flash=0&wgl=1&adsid=ChAI8NvE_AUQ2prrvI2pxaINEkgAN6-YxRi66ALErjXAEByx_IIpU5uXO5RF_Cwp6XrMgJIcZJbaLCDrKzov1JWVUquJszGXWc4A815Nndnq4dap3ve4xLz2q-c&tt_state=W3siaXNzdWVyT3JpZ2luIjoiaHR0cHM6Ly9hZHNlcnZpY2UuZ29vZ2xlLmNvbSIsInN0YXRlIjowfV0.&dt=1603428370049&bpp=97&bdt=11759&idt=2026&shv=r20201020&cbv=r20190131&ptt=9&saldr=aa&abxe=1&cookie=ID%3Da8d8f7104032e267-2222e89237c40057%3AT%3D1603236191%3ART%3D1603236191%3AS%3DALNI_MaoxOs68TqkN3Xt0rrp0UvOvqQ_Dw&prev_fmts=300×250%2C0x0%2C300x250&nras=1&correlator=8186713944541&frm=20&pv=1&ga_vid=1465405372.1508563676&ga_sid=1603428372&ga_hid=1422648363&ga_fc=0&iag=0&icsg=1048544&dssz=102&mdo=0&mso=0&u_tz=-420&u_his=6&u_java=0&u_h=768&u_w=1366&u_ah=728&u_aw=1366&u_cd=24&u_nplug=3&u_nmime=4&adx=188&ady=3766&biw=675&bih=329&scr_x=0&scr_y=2453&eid=42530672&oid=3&psts=AGkb-H8exgDorzv23MtDwIGmXQd41SOliNmVdNY1BKJ-82Y5zCuJEpd6JybV8JeGPaas%2CAGkb-H_j-8zdkLIpsD8FYCXWpcs9cJSkttfEhgPJPZK2cLqYx1NPQzQilKVKNZr2kTAL&pvsid=339666677082685&pem=855&ref=https%3A%2F%2Fwww.dkn.tv%2Fthe-gioi%2Fgiua-cang-thang-voi-trung-quoc-bo-tu-sap-tap-tran-chung.html&rx=0&eae=0&fc=896&brdim=0%2C0%2C0%2C0%2C1366%2C0%2C1366%2C728%2C683%2C328&vis=1&rsz=%7Co%7CoeEbr%7C&abl=NS&pfx=0&fu=8192&bc=31&jar=2020-10-23-04&ifi=3&uci=a!3&btvi=3&fsb=1&xpc=3bmuTasgAS&p=https%3A//www.dkn.tv&dtd=M

Một loại giả thuyết như thế này, nếu không chính xác vì sao vẫn tồn tại trong lịch sử dài đằng đẵng của nhân loại. Không chỉ ở Trung Hoa cổ đại, mà các vua chúa Đại Việt xưa cũng hay dùng cách đặc xá thiên hạ để hóa giải thiên tai, đại nạn. Chẳng phải nếu không có tác dụng, nó sẽ bị lịch sử đào thải hay sao.

Nhưng Ất Tỵ Chiêm cũng nói, chỉ có một số thiên tượng nhất định mới có thể được “giải quyết bằng ân xá”. Oán thán ngút trời từ việc cả một cộng đồng dân chúng, cả một vương triều đều bị lừa mà hùa vào cùng hành ác, thì trong chính lịch sử của Trung Quốc cũng cho thấy, Thiên Địa ắt có biện pháp mà không nương tay.

Trung Hoa hãy nhìn lại bài học trong lịch sử của chính mình

Có người đã dày công nghiên cứu về sự hủy diệt của một vương triều vĩ đại tại mảnh đất Thần Châu, rút ra một kết luận rằng, nhà Minh sụp đổ chính bởi một trận ôn dịch. Khi ôn dịch tấn công quân đội nhà Minh, đạo quân Lý Tự Thành và cả đội quân Quan Ninh của Ngô Tam Quế lại chẳng hề hấn gì, như thể dịch bệnh thật sự có mắt. Lý Tự Thành lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ nhà Minh, lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Đại Thuận hoàng đế lập ra nhà Đại Thuận năm 1644. Nhưng ngay trong năm đó, quân Mãn Châu, với sự thông đồng của Ngô Tam Quế đã lật đổ và tiêu diệt toàn bộ lực lượng của Lý Tự Thành, lập nên Nhà Thanh.

Vì sao ôn dịch dường như chỉ tấn công quân đội và quan dân nhà Minh. Đạo quân phản nghịch Ngô Tam Quế cũng thuộc nhà Minh nhưng sao lại có nhiều chứng cứ ghi chép cho thấy họ chiến đấu dũng mãnh, không hề có dấu hiệu bị dịch bệnh.

Kỵ binh Quan Ninh của Ngô Tam Quế vốn trước là đội quân mạnh nhất do Viên Sùng Hoán một tay xây dựng vào cuối triều nhà Minh. Nhưng sau Viên Sùng Hoán bị nhà Minh bức hại, bịa đặt tội danh, còn bị dùng khung hình phạt nặng nhất – phanh thây để xử tử. Khi đối diện với hình phạt tàn khốc, những người dân bị triều đình lừa dối, không những mắng chửi ông là kẻ bán nước, còn tranh cướp nhau mua thịt ông mà ăn sống. Ông bị dày vò hành hạ 3 ngày mới qua đời, bách tính trong thành còn tranh nhau mua nội tạng của ông, băm nát để giải hận… cảnh tượng bi thảm tàn khốc này, vĩnh viễn không thể xóa được trong sử sách.https://googleads.g.doubleclick.net/pagead/ads?client=ca-pub-2791219656443006&output=html&h=250&slotname=8505263573&adk=2904022356&adf=3034505343&pi=t.ma~as.8505263573&w=300&lmt=1603421482&psa=1&guci=2.2.0.0.2.2.0.0&format=300×250&url=https%3A%2F%2Fwww.dkn.tv%2Fgoc-nhin-dkn%2Ftai-hoa-lien-tiep-o-trung-quoc-vi-sao-chinh-quyen-gay-toi-nhan-dan-lai-chiu-hoa.html&flash=0&wgl=1&adsid=ChAI8NvE_AUQ2prrvI2pxaINEkgAN6-YxRi66ALErjXAEByx_IIpU5uXO5RF_Cwp6XrMgJIcZJbaLCDrKzov1JWVUquJszGXWc4A815Nndnq4dap3ve4xLz2q-c&tt_state=W3siaXNzdWVyT3JpZ2luIjoiaHR0cHM6Ly9hZHNlcnZpY2UuZ29vZ2xlLmNvbSIsInN0YXRlIjowfV0.&dt=1603428370146&bpp=5&bdt=11856&idt=2068&shv=r20201020&cbv=r20190131&ptt=9&saldr=aa&abxe=1&cookie=ID%3Da8d8f7104032e267-2222e89237c40057%3AT%3D1603236191%3ART%3D1603236191%3AS%3DALNI_MaoxOs68TqkN3Xt0rrp0UvOvqQ_Dw&prev_fmts=300×250%2C0x0%2C300x250%2C300x250&nras=1&correlator=8186713944541&frm=20&pv=1&ga_vid=1465405372.1508563676&ga_sid=1603428372&ga_hid=1422648363&ga_fc=0&iag=0&icsg=1048544&dssz=102&mdo=0&mso=0&u_tz=-420&u_his=6&u_java=0&u_h=768&u_w=1366&u_ah=728&u_aw=1366&u_cd=24&u_nplug=3&u_nmime=4&adx=188&ady=4881&biw=675&bih=329&scr_x=0&scr_y=3601&eid=42530672&oid=3&psts=AGkb-H8exgDorzv23MtDwIGmXQd41SOliNmVdNY1BKJ-82Y5zCuJEpd6JybV8JeGPaas%2CAGkb-H_j-8zdkLIpsD8FYCXWpcs9cJSkttfEhgPJPZK2cLqYx1NPQzQilKVKNZr2kTAL%2CAGkb-H_Oq1g4l6_WdIuA1k3HQUq0H8UXg9ksiOLrkmiYc-lO5DUfcuMNi3Ko2EdYyqPorQ&pvsid=339666677082685&pem=855&ref=https%3A%2F%2Fwww.dkn.tv%2Fthe-gioi%2Fgiua-cang-thang-voi-trung-quoc-bo-tu-sap-tap-tran-chung.html&rx=0&eae=0&fc=896&brdim=0%2C0%2C0%2C0%2C1366%2C0%2C1366%2C728%2C683%2C328&vis=1&rsz=%7Co%7CoeEbr%7C&abl=NS&pfx=0&fu=8192&bc=31&jar=2020-10-23-04&ifi=4&uci=a!4&btvi=4&fsb=1&xpc=FVGDLByj9f&p=https%3A//www.dkn.tv&dtd=M

Án oan trong lịch sử có khá nhiều, nhưng án oan mà khiến người dân của một triều đại hiểu nhầm, hùa theo chính thể để gia tăng tội ác như với Viên Sùng Hoán thì quả thật hiếm có. Ôn dịch xuất hiện như chỉ nhắm vào triều Minh mà loại trừ những kẻ thù của họ ra, dù những người này có thể cũng chẳng tốt đẹp gì. Nhưng nó như góp thêm sức để tiêu diệt triều đại đã phạm đạo Trời. Vương triều đại Minh bị hủy diệt mang theo đi hơn mười triệu bách tính cùng tuẫn táng theo. Tất cả chỉ vì quân vương làm trái đạo trời, nghịch thiên lý, và dân chúng hoàn toàn bị lừa dối mà tin theo.

Án oan lớn nhất mà ĐCSTQ đã gây ra

Những tội ác mà ĐCSTQ đã từng ra tay với người dân của mình, hầu như lần nào cũng đều dùng biện pháp tuyên truyền vu khống để che giấu sự thật. Người dân đối với một nhóm bị đàn áp nào đó luôn bị hiểu sai, gia tăng oán hận, thậm chí tới mức thấy chết cũng không buồn cứu vì đã quá căm ghét nhóm người đó. Điển hình nhất là vụ việc tuyên truyền rợp trời phỉ báng, vu khống Pháp Luân Công từ năm 1999 cho tới ngày nay, và gần đây nhất chiêu bài này lại được lặp lại với người biểu tình dân chủ Hồng Kông.

Người dân Trung Quốc bị đầu độc một cách có hệ thống đã về hùa với ĐCSTQ mà gia tăng bức hại, khổ nạn lên những người lương thiện, luôn hướng tới những giá trị tốt đẹp của con người tự do. Án oan ấy, chẳng phải cũng như Viêm Sùng Hoán khi xưa. Một khi càng nhiều người không nhận ra sự thật, tội lỗi, “cộng nghiệp” mà dân Trung Quốc tạo thành càng dày.

Những thiên tai, dị tượng gần đây liên tiếp xảy ra liệu có phải là cách thu hút chú ý để cảnh tỉnh thế nhân, cảnh tỉnh người dân Trung Quốc. Ở trong hiểm nguy, trước nguy cơ mất hết, người Trung Quốc hãy tỉnh ngộ, rằng ĐCSTQ cuối cùng cũng sẵn sàng xả nước lớn không báo trước để cứu đập – biểu tượng thành công của đảng. ĐCSTQ cũng đã sẵn sàng bỏ qua an nguy của bách tính, của người dân thế giới khi giấu giếm, nói dối về dịch bệnh. Một thể chế như vậy liệu còn đáng tin, đáng được cho cơ hội sửa sai hết lần này đến lần khác?

Lịch sử tồn tại của ĐCSTQ là lấy nỗi khiếp sợ của người dân làm nguồn lực sinh tồn cho mình. Án oan đã ngút trời, tội lỗi đã phạm có cả việc được tòa án quốc tế kết luận là chống lại loài người, nếu còn tin tưởng nghe lời ĐCSTQ, người dân Trung Quốc chính là đồng lõa với tội ác, chính là có tội. Tội này chẳng có tòa nào có thể xử, vậy ai xử đây, thế lực nào có thể tế Thiên hành đạo? Nhìn vào sự xuất hiện của dịch viêm phổi Vũ Hán, dịch tả lợn, dịch hạch, dịch cúm lợn mới cùng những trận mưa như trút nước tập trung một cách kỳ lạ quanh Trường Giang. Đó chẳng phải là đã quá rõ ràng rồi sao.

Có thể bạn quan tâm:

Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Một quân vương đủ mạnh không cần tới tường thành cao, một dân tộc có đạo đức thì ắt phú cường

Một quân vương đủ mạnh không cần tới tường thành cao, một dân tộc có đạo đức thì ắt phú cường

Tĩnh Thuỷ | DKN 2 giờ trước 10,615 lượt xem
Ảnh: Tổng hợp
Triều đại nào chăm lo cho đời sống của bá tánh thì bá tánh ấy dù có dùng hết sinh mạng của mình cũng quyết bảo vệ triều đại ấy đến cùng không cho sụp đổ. Còn ngược lại thì dẫu có thành cao hào sâu, quân lính mạnh mẽ đi nữa, cùng lắm là duy trì vài chục năm. Tấm gương của nhà Tần còn đó, Vạn Lý Trường Thành và trăm vạn hùng binh đâu có bảo vệ nhà Tần khỏi diệt vong chỉ sau mới hai đời vua.

Định đô là việc hệ trọng bậc nhất quyết định tương lai của cả dân tộc, quốc gia. Là thủ đô của nước Nam ngàn năm văn hiến, Hà Nội đã được Lý Thái Tổ chọn làm kinh đô qua một giai thoại tuyệt vời. Năm 1010, Lý Công Uẩn được tôn lên ngôi báu, đó là Lý Thái Tổ, vị vua khai sinh ra triều Lý (1010 – 1225). Công việc đầu tiên của Lý Thái Tổ là dời đô. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 2, tờ 2 a – b và tờ 3 – a) chép rằng:

“Vua thấy Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác… Mùa thu tháng bảy (năm 1010), Vua từ thành Hoa Lư dời đô ra phủ thành Đại La. Khi thuyền Vua đang tạm đỗ dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự. Vua nhân đó đổi gọi thành Đại La là Thăng Long”.

Nhưng xét theo các khía cạnh khác như quân sự và hiểm yếu thì Thăng Long lại không phải nơi lý tưởng để định đô, vì bốn mặt trống không nên dễ công mà khó thủ. Nhất là trong bối cảnh một nước hay bị họa ngoại xâm suốt hàng nghìn năm như Việt Nam, thì dường như quyết định của Lý Thái Tổ có vẻ phiêu lưu và không hợp lý lắm.

Nhưng sau đó khoảng sáu thế kỷ và cách nhau mấy châu lục, một vị quân chủ khác cũng có cùng ý tưởng như Lý Thái Tổ, đó chính là Hoàng Đế Mặt Trời Louis XIV, vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử nước Pháp. Năm 1661, Louis XIV quyết định dời đô ra Versailles và biến nơi này thành cung điện tráng lệ nhất châu Âu thời đó. Cũng giống như Thăng Long, cung Versailles này cũng nằm ở nơi trống trải bốn mặt và không có cả tường thành bảo vệ. Louis XIV đã xây cung điện trị vì không được che chắn, giữa đồng trống, để chứng tỏ một đấng quân vương đủ quyền lực không cần đến hào và tường thành để bảo vệ.

Lịch sử chứng minh rằng hai vị quân vương ấy đã làm đúng, khi mà một người khai sáng triều đại lâu dài thịnh vượng nhất Việt Nam, một người xây dựng đế quốc Pháp trở nên hùng mạnh nhất châu Âu. Vậy vì sao lại nói là “một quân vương đủ quyền lực không cần đến hào và tường thành bảo vệ”?

Ảnh chụp Hoàng Thành Thăng Long, Hà Nội (Ảnh: Shutterstock)

Lòng dân là tường thành vững chắc nhất

Người xưa nói “quân quyền Thần thụ”, nghĩa là vua do Trời ban quyền. Nhưng cũng có câu rằng: “dân dĩ Thực vi Thiên” (dân coi cái ăn chính là Trời). Nên lòng dân chẳng phải trừu tượng sâu xa, mà chính là lòng yêu quý kính trọng với ai mà bảo vệ cái quý giá nhất của dân chúng – miếng ăn. Vị vua bảo vệ miếng ăn của dân cũng tức là bảo vệ Trời của họ, cũng có nghĩa là ông đã làm theo ý Trời rồi. Người làm theo ý Trời thì sao có thể thất bại được.

Vậy nên, triều đại nào chăm lo cho đời sống của bá tánh thì bá tánh ấy dù có dùng hết sinh mạng của mình cũng quyết bảo vệ triều đại ấy đến cùng không cho sụp đổ. Còn ngược lại thì dẫu có thành cao hào sâu, quân lính mạnh mẽ đi nữa, cùng lắm là duy trì vài chục năm. Tấm gương của nhà Tần còn đó, Vạn Lý Trường Thành và trăm vạn hùng binh đâu có bảo vệ nhà Tần khỏi diệt vong chỉ sau mới hai đời vua.

Ấy vậy mà một quốc gia Đại Việt bé như cái nắm tay, lại có thể ngoan cường đập tan ba cuộc xâm lược của đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời đó. Thiên tài quân sự của Hưng Đạo Vương và sự thiện chiến của quân đội nhà Trần nếu không có lòng dân vốn dĩ rất yêu quý nhà Trần, thì tài gấp mười Quốc Tuấn cũng phải ôm hận. Đúng như câu nói của Ông vào cuối đời : “Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt”. Và sách lược tốt nhất để giữ nước chính là:

“Khoan sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy mới là thượng sách giữ nước”.

Đức của người cai trị quyết định vận mệnh dân tộc

Cùng là vua chúa như nhau nhưng Lý Thái Tổ ngự ở Thăng Long thì nhà Lý nối đời 200 năm với vô số vinh quang, nhà Trần đập tan ba cuộc xâm lược Nguyên Mông, nhưng Hồ Quý Ly có đến hàng trăm vạn quân lại không giữ nổi nước được vài năm trước quân Minh.

Vậy đâu là điểm khác biệt?

Sự khác nhau lớn nhất chính là Đạo Đức của Lý Thái Tổ so với các quân vương khác. Ông vốn xuất thân cửa Phật nên sống cuộc sống rất giản dị và luôn hết mực chăm lo dân chúng. Thời ông và con ông chính là thời mà dân Việt được xá thuế nhiều nhất trong lịch sử. Ông còn luôn hoằng dương Phật Pháp, hướng dân cả nước hành Thiện tích Đức theo giáo lý nhà Phật. Con của ông ngay cả đánh dẹp phản loạn còn không nỡ giết mà tha cho mấy lần. Nên nhà Lý tích được phúc lớn, vận nước lâu dài và không bị ngoại tộc xâm chiếm.

Trong khi đó, Hồ Quý Ly sau khi lấy ngôi nhà Trần đã không chú ý nhiều đến đoàn kết lòng dân, ông quá chú trọng vào xây dựng quân đội, đúc vũ khí và thi hành các chính sách khác. Thậm chí con ông, Hồ Nguyên Trừng khi được hỏi về khả năng đánh thắng quân Minh đã trả lời: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”.

Lão Tử có câu: “Người thuận theo Đất, đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên”. Đất thuận theo Trời còn có hàm nghĩa rằng chỉ người có Đức mới được trời ban cho vùng đất lành để làm kinh đô. Vậy nên, sống ở một nơi kinh đô phong thủy đẹp thì càng phải lo tu thân tích đức, nếu không thế thì sẽ bị đào thải ngay thôi. Nhà Hồ không đủ Đức để thống ngự Thăng Long nên dân tộc mới lầm than mấy chục năm trời.

Nâng cao đạo đức, tu dưỡng thân tâm là đạo trị quốc cao nhất

Khổng Tử có câu: “Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ”. Lý Thái Tổ và Louis XIV đã làm rất tốt những điều này, vậy bí quyết của họ nằm ở đâu? Tất cả chỉ nằm ở một chữ “Tâm” mà thôi. Vì việc đầu tiên để có thể bình thiên hạ lên ngôi cửu ngũ chính là “tu thân”. Mà để tu thân thì không gì khác là tu cái Tâm của mình.

Có câu: “Sở vị tu thân tại chính kỳ tâm giả”, nghĩa là tu thân nằm ở nơi Chính Tâm. Bởi vì tâm với thân chính là một, muốn tu trì được thân, cũng chỉ tu trì ở nơi Tâm mà thôi. Sở dĩ làm cho thiên hạ trở nên yên bình hay loạn lạc cũng chỉ là do Tâm của một người (vua) mà ra.

Xưa có câu “nhất nhân định quốc”, hay “Nghiêu, Thuấn suất thiên hạ dĩ nhân, nhi dân tòng chi; Kiệt, Trụ suất thiên hạ dĩ bạo, nhi dân tòng chi”. Tạm dịch: Nghiêu Thuấn dẫn dắt thiên hạ bằng nhân, dân theo đó mà làm theo. Kiệt Trụ dẫn dắt thiên hạ bằng bạo ngược, dân cũng theo đó mà làm.

Chữ “suất” không chỉ là lãnh đạo mà còn có ý là làm gương cho người khác noi theo, tức là lấy thân mình làm gương sáng để dẫn dắt người dân. Vậy nên nói Tâm của một đấng quân vương có thể an định thiên hạ, cũng có thể làm loạn thiên hạ. Quả thực là đáng sợ nếu người ngồi trên ngôi cao mà không tu Tâm của mình.

Ảnh Văn Miếu Quốc Tử Giám (Ảnh: Shutterstock)

Vậy muốn tu Tâm cho tốt để làm gương cho quốc dân thì cần làm thế nào? Vị lãnh đạo đó chính là phải “tề gia”, nghĩa là làm cho gia đình của chính mình trở nên tốt đẹp.

Có câu: “Nghi kỳ gia nhân nhi hậu khả dĩ giáo quốc nhân”. Tạm dịch: Làm cho người trong nhà trở nên tốt hơn, sống theo lễ nghi thì có thể dạy dỗ, giáo hóa cho người trong cả nước.

Quốc gia tức là nước nhà, dùng nhà để trị quốc, an định trong nhà tất trong nước phải yên. Muốn trị quốc tốt không nằm ngoài chỉnh trị gia đình.

Sau cùng là “bình thiên hạ”, quân vương nhìn vào đâu để biết chính sách của mình đã bình được thiên hạ hay chưa? Có phải bình thiên hạ là dùng vũ lực tiêu diệt hết kẻ chống đối và trấn áp hết thảy phản loạn như Tần Thủy Hoàng hay Hitler? Tiếc thay, đó chỉ là cách trị thiên hạ trong thời loạn và là giải pháp tình thế mà thôi, còn xa mới đến chuẩn mực “ bình thiên hạ” của cổ nhân.

Có câu: “Thượng lão lão nhi dân hưng hiếu; thượng trưởng trưởng nhi dân hưng đễ; thượng tuất cô nhi dân bất bội; thị dĩ quân tử hữu hiệt củ chi đạo dã”. Tạm dịch: Người trên kính trọng người già mà dân thi nhau làm việc hiếu (lão: là người tuổi ngang cha mình). Người trên tôn trọng bậc trưởng thượng mà dân đua nhau làm việc đễ (đễ là việc tôn trọng người anh, người hơn tuổi-trưởng: là người tuổi ngang anh mình). Người trên chăm lo cho trẻ mồ côi mà dân bắt chước không làm điều ngang trái. Những đạo lý đó chính là đạo mà người quân tử dùng để tự đo lường vậy ( “hiệt củ” hiểu là khuôn mẫu đạo đức).

Từ những câu trên mà suy ra, “bình thiên hạ” chính là lấy thân mình làm gương sao cho dân chúng đều sống theo hiếu đễ và chính trực, đầy lòng nhân ái, chứ đâu có chỗ nào nói phải làm cho thiên hạ sợ mà theo đâu. Vua quan theo đạo hiếu đễ, quốc dân đua nhau sống nhân nghĩa thiện tâm thì xứ đó sao không hưng thịnh và bình yên lâu dài được.

Vậy tóm lại, không phải những chương trình dân sinh nghìn tỷ, những đại lộ xa hoa hay những nền công nghiệp hiện đại mới có thể giúp cho một quốc gia bình yên và thịnh vượng. Nếu như dân tộc đó không có đạo đức thì những thứ nói trên cũng sẽ đem lại một tai họa khác mà thôi. Chỉ khi mà đạo đức được đề cao từ trên xuống dưới thì một dân tộc mới có thể làm nên kỳ tích.

Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Lê Duẩn mừng Trung cộng có bom nguyên tử

Lê Duẩn mừng Trung cộng có bom nguyên tử

Trần Trung Đạo

12-9-2020

Nhân việc tôi đang sưu tập để làm một thư mục tài liệu về nguyên tử của Trung Cộng, xin giới thiệu điện văn ngày 20 tháng 10, 1964 của Tòa Đại Sứ Trung Cộng tại Hà Nội gởi về Bộ Ngoại Giao Trung Cộng sau buổi gặp gỡ giữa Lê Duẩn và các chuyên gia Trung Cộng tại Hải Phòng.

 

Điện văn cho thấy hai điểm: (1) Lê Duẩn ủng hộ chính sách chống “xét lại” của Mao chứ không phải chống lại quan điểm của Mao hay trung lập như một số người nghĩ và (2) xem thành công trong việc chế tạo thành công bom nguyên tử của Trung Cộng là thành công của đảng CSVN (ngày đó còn gọi dưới tên đảng Lao Động).

Giống như quan điểm về Hoàng Sa Trường Sa, trong đầu của giới cai trị CSVN không bao giờ nghĩ có ngày những trái bom đó có thể được ném xuống Việt Nam.

Điện thư bằng tiếng Hoa do Trung Tâm Wilson dịch ra tiếng Anh:

“Lê Duẩn, Bí Thư Thứ Nhất Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Thủ Tướng Phạm Hùng và Thứ Trưởng Bộ Ngoại Thương Lý Bân đã gặp gỡ đại diện doanh nghiệp vận tải biển của Bộ Giao Thông Vận Tải tại Hải Phòng và tất cả các chuyên gia của chúng ta tại Hải Phòng và chúc mừng chúng ta vì vụ thử nguyên tử thành công. Sau cuộc họp, họ chiêu đãi một bữa tối thân mật tuy không chính thức.

Trong cuộc gặp, Lê Duẩn nói rằng việc Trung Quốc thử thành công bom nguyên tử là sự khích lệ to lớn đối với cuộc đấu tranh của Việt Nam, và chiến thắng của chúng ta là thắng lợi của họ. Điều thứ hai đáng vui mừng là Khrushchev mất quyền lực. Công trạng này thuộc về Trung Quốc và thực tế là đảng CS Trung Quốc. Sự sụp đổ của Khrushchev chỉ là bước đầu tiên trong cuộc chiến chống chủ nghĩa xét lại của chúng ta. Lê Duẩn nói rằng ông đã tranh luận với Khrushchev về vấn đề hạt nhân khi họ gặp nhau ở Moscow, trong đó họ đã tranh luận về lý do tại sao Trung Quốc không thể có vũ khí nguyên tử. Bây giờ Trung Quốc cuối cùng cũng có bom nguyên tử của riêng mình, đây là chiến thắng của Trung Quốc và điều đó cũng đã mang lại niềm vui cho Việt Nam.

Lê Duẩn cũng bày tỏ sự quan tâm đối với các chuyên gia của chúng tôi và chúc họ mạnh khỏe”.

Ảnh: internet
Bình Luận từ Facebook
Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Thư của ông Chu Đình Xương gởi BCH Trung ương đảng CSVN tháng 2/1983

Thư của ông Chu Đình Xương gởi BCH Trung ương đảng CSVN tháng 2/1983

12-9-2020

Lời giới thiệu: GS Ngô Vĩnh Long vừa công bố thư của ông Chu Đình Xương, bố của GS Chu Hảo, gởi Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam hồi tháng 2/1983, trong đó, ông Xương gọi Mao Trạch Đông là “thằng Mao”, hay “con quỷ sứ Mao Trạch Đông”. Bức thư dài 12 trang, mà GS Ngô Vĩnh Long công bố là các file ảnh, đã được một thân hữu của Tiếng Dân chuyển sang bản Word.

GS Ngô Vĩnh Long cho biết: “Tôi đã giữ tài liệu nầy rất lâu và không công bố vì tôi sợ gia đình ông bị khó khăn, tuy tài liệu nầy không phải do GS Chu Hảo đưa cho tôi. Nhưng nay tôi nghĩ đã gần 40 năm từ khi ông Chu Đình Xương gởi thư nầy và đã có ‘biết bao nhiêu nước chảy dưới cầu’, như cách người Mỹ nói, nên tôi nghĩ công bố thư nầy chắc sẽ không gây thêm phiền hà. Ngược lại, tôi nghĩ những gì ông Chu Đình Xương nói về Trung Quốc và Mao Trạch Đông trong thư nầy còn những giá trị cho người đọc hiện nay“.

GS Ngô Vĩnh Long dẫn bài báo Công an Nhân dân, viết về ông Chu Đình Xương là “Người bảo vệ Bác Hồ trong Tết Độc lập đầu tiên” và cho biết thêm, “từ tháng 8 năm 1945 ông Chu Đình Xương được cử làm Giám đốc Sở Liêm Phóng Bắc Bộ và sau đó là Giám đốc Sở Công An Bắc Bộ. Từ tháng 3 năm 1950 đến tháng 7 năm 1954 ông là Trưởng phòng 4 Bộ Nội Vụ, tức là Bộ Công An hiện nay. Tôi cũng xin tải lên đây một tấm ảnh với ông Chu Đình Xương đứng ngay phía sau ông Hồ Chí Minh“.

Ảnh: Ông Chu Đình Xương là người đứng bắt chéo chân, tay vịn ghế người ngồi là ông Hồ Chí Minh. Đứng cạnh ông là Võ Nguyên Giáp (đội nón), bên kia là Phạm Văn Đồng. Nguồn: Ngô Vĩnh Long

***

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc

Kính gởi: BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM,

Kính thưa các đồng chí,

Tôi là CHU ĐÌNH XƯƠNG, 70 tuổi, đảng viên kỳ cựu của Đảng ta, về mặt công chức Nhà nước thì đã hưu trí, nhưng về mặt trách nhiệm đảng viên thì không thể hưu trí được, nhất là trước tình trạng khó khăn và bê bối của đất nước hiện nay.

Mới đây, tôi được đọc bài phát biểu ý kiến của đ/c PHẠM HÙNG trước hội nghị tư pháp toàn quốc đăng trên báo Saigon Giải Phóng ngày 15/01/1983, một câu trong đó đã làm tôi quá đau xót, đau xót bến mức mất ăn mất ngủ: “Như các Nghị quyết số 128 và 188 của Hội đồng Bộ trưởng đã nêu lên, tệ tham ô lãng phí trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa còn nghiêm trọng ở hầu hết các ngành, các cấp”.

Trời đất ơi? Nhà nước của chúng ta lại bất lực đến thế kia ư?

Một Ủy viên Bộ Chính trị, Phó chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng trực tiếp làm công tác chuyên chính đàn áp mà phải công bố công khai điều đó trên mặt báo chí, là đúng hay là sai, đã làm tôi rất băn khoăn.

Nhưng điều làm tôi khắc khoải hơn cả là nguyên nhân của tình hình nghiệm trọng trên là đâu? Gần một tháng nay tôi lo âu suy nghĩ, sưu tầm và chủ quan thấy rằng mình đã tìm ra nguyên nhân chính xác:

Thủ phạm chính là MAO TRẠCH ĐÔNG và chủ nghĩa MAO.

Tôi xin phép được trình bày ý kiến của mình lên Trung Ương xem xét.

Kinh thân,

Ký tên

CHU ĐÌNH XƯƠNG

31 Nguyễn Đình Chiểu Hà Nội

(tháng 2 năm 1983)

***

BÀN TAY NHAM HIỂM VÀ TÀN BẠO CỦA MAO TRẠCH ĐÔNG ĐÃ THÒ SANG VIỆT NAM CHÚNG TA NHƯ THẾ NÀO?

I. BẢN CHẤT MAO TRẠCH ĐÔNG.

1. Về bản chất của Mao Trạch Đông thì thế giới đã bàn nhiều, rất nhiều rồi và cũng đi đến nhất trí tóm tắt như sau:

a) Mục đích, ý đồ, tham vọng của Mao là: làm bá chủ trước hết ở Trung Quốc, rồi đến Đông Nam Á, rồi ra cả thế giới, ngày nay Đặng Tiểu Bình vẫn đang tiếp tục thực hiện mục đích ấy. Trung quốc tuy rất nghèo, nợ nần quốc tế khá lớn, nhưng vẫn bỏ tiền bỏ của ra nhiều khu vực trên thế giới để phá hoại phong trào cách mạng.

b) Phương tiện, thủ đoạn của y là:

Xảo quyệt, đâm bị thóc chọc bị gạo, gây mâu thuẫn thường xuyên. “Toạ sơn quan hổ đấu, về quan hệ quốc tế Mao không thật thà tử tế với một nước nào. Về quan hệ cá nhân, Mao không tử tế, thật thà với một ai, thực sự y không có đồng chí, không có bạn.

2. Một vài sự kiện sau đây cũng đã chứng minh:

a) Năm 1930, tập thể tỉnh ủy Thiểm Tây đã ra một văn bản lên án Mao, theo đó y chỉ đáng khai trừ khỏi Đảng và xử tử, ấy thế mà hầu những năm 1945 y đã nghiễm nhiên là lãnh tụ số 1 của Đảng,

b) Y đã bí mật thủ tiêu chính con trai của y là Mao Ngạc Anh.

c) Cuối năm 1949 sau khi Cách mạng Trung quốc thành công, khi cử một số đông cán bộ sang giúp bổ Việt Nam (Đoàn cố vấn) y đã căn dặn bọn này:

“Trước đây giai cấp phong kiến Trung quốc, tổ tiên của chúng ta khi xâm lược Việt Nam, đã vơ vét biết bao của cải châu báu của nhân dân Việt Nam anh em, thâm chí bắt đúc cả người bằng vàng để cống nạp, ngày nay, các đồng chí sang Việt Nam cụ thể là để trả những món nợ ấy”.

Ôi! quân tử biết bao! Cao cả biết bao! Ấy thế mà trong những năm 1960 – 1965 đội quân công binh Trung quốc sang Việt Nam xây dựng giúp một số con đường hữu nghị, và đã có số hy sinh trên đất Việt Nam, rải rác đây đó, có một số nghĩa trang, ngay sau khi Trung quốc đã xâm lược ta, nhân dân Việt Nam vẫn trân trọng linh hồn của những người “bạn” đã “hy sinh” xương máu cho Việt Nam, vẫn thường xuyên hương khói, tảo mộ.

Đến năm 1979, vì cần thiết phải dời các nghĩa trang này ở Hoàng Liên Sơn để xây dựng công trình thì: thật “khủng khiếp” , khi đào các ngôi mộ lên, hoàn toàn không có một nắm xương nào, mà toàn là vũ khí, bảo quản rất chu đáo. Chỉ riêng dọc quốc lộ 11 đã có đến 20 nghĩa trang kiểu không xương toàn súng này.

d) Mao không hề bước chân ra khỏi đất Trung quốc, mà trong những năm 1960, y đã chia đôi được một số đảng cộng sản trên thế giới, gây cho chính những người cộng sản thù địch lẫn nhau.

3. Căm thù sâu sắc Mao và chủ nghĩa Mao, những người cộng sản Việt Nam đã phát hiện thêm ở Mao một vài điểm không kém phần cơ bản:

a) Mao ba vận dụng các “Mâu thuẫn luận” của y theo kiểu nào đó, y đã tự đặt cho y có hai loại kẻ thù:

i. Kẻ thù bên ngoài bao gồm: địa chủ phong kiến, tư sản, quốc dân đảng, Tưởng giới Thạch, Đế quốc Mỹ, phát xít Nhật và … Liên Xô.

ii. Kẻ thù bên trong là đồng chí của y, cũng chia làm 2 loại : một là những người kiên định lập trường quốc tế vô sản hoàn toàn coi Liên Xô là trụ cột, là chỗ dựa vững chắc của cách mạng thế giới nhất là của Trung quốc, hai là những người tuy cùng chí hướng bành trướng, bá quyền đại hán với y, nhưng lại có điểm bất đồng với y, chống đối y.

b) Điểm này khi đặc biệt: Suốt đời y, y không lo đánh kẻ thù bên ngoài, mà gạt cho người khác đánh, ví dụ: Trong những năm 1940-45, y đã án binh bất động, không đánh quốc dân đảng, không đánh Nhật để cho 2 kẻ thù đánh nhau, đồng thời gạt cho Liên Xô đánh Nhật, với ý thức rõ ràng là Liên Xô cũng là thù. Còn suốt đời y, y chỉ lo diệt đồng chí của y, cả hai loại đồng chí trên, diệt cho đến người bạn chiến đấu thân thiết nhất của y [người], thì y cũng chết theo sau đó. Nếu tính từ Vũ Phù Tiên, Vu Tuấn Nghĩa đến Vạn Lý Trường Chinh, đến Chỉnh Phong Diên An, đến Tam phản, Ngũ phản, đến Cách mạng Văn hóa v.v… thì bàn tay Mao Trạch Đông đã giết hàng chục triệu đồng chí của mình. Cái chết của Lưu Thiếu Kỳ mới tàn bạo làm sao, mới thê thảm làm sao! Phải nhắc lại ở đây y đã giết chính cả con trai của y Mao Ngạc Anh. Cái nham hiểm, cái xảo quyệt của y là: nói chung y đã dùng tay đồng chí nọ giết đồng chí kia, Y đã đi từ một tên tội phạm lên đến Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước bằng con đường nà Y đã dùng xác đồng chí của mình lót đường để leo lên đài bá chủ.

II. MAO TRẠCH ĐÔNG ĐÃ LÀM GÌ ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM.

(1) Mục đích và ý đồ của Mao như y thường nói ra miệng, cũng như học sinh phổ thông Trung Quốc vẫn học địa lý là Việt Nam là đất của Trung quốc, vậy Mao phải trở nên Bá chủ Việt Nam để từ đó tiến lên làm bá chủ Đông Nam Á, Muốn thôn tính Việt Nam thì kẻ thù của y là ai? Ai là người cản trở không cho y làm nổi việc này? Và y đã thấy đó là toàn bộ đảng viên của Đảng Cộng sản Đông Dương, vì Đảng này đã kiên định trên lập trường quốc tế vô sản, coi Liên Xô là người dẫn đường, là chỗ dựa vững chắc của cách mạng Việt Nam, như “Đường cách mệnh” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng như Luận Cương chính trị của đ/c Trần Phủ đã nêu.

(2) Muốn thôn tính Việt Nam, muốn là bá chủ cả Việt Nam, Mao Trạch Đông nhận thấy trước hết là phải tiêu diệt Đảng Cộng Sản Đông Dương, Để đạt mục tiêu này, y sẽ có cả một kế hoạch gồm 4 bước, rất xảo quyệt, rất tinh vi, rất độc ác, như sau:

BƯỚC MỘT: Làm cho những người Cộng sản Việt Nam chấp nhận một cách tự giác tư tưởng Mao Trạch Đông là kim chỉ nam của mọi hoạt động của Đảng (Điều lệ Đảng của Đại hội II năm 1951).

Không thể ngẫu nhiên mà những người cộng sản Việt Nam chấp nhận điểm này một cách êm thấm, không một lời phản ứng. Muốn đạt điểm này, y đã phải gia công chuẩn bị trong hơn 4 năm, y đã cử cán bộ đắc lực của y luồn vào Đảng ta để truyền bá tư tưởng Mao Trạch Đông. Một khối tài liệu đồ sộ Chỉnh phong đích văn kiện đã thâm nhập vào Việt Nam tháng 12-1946, rồi từ 1947, 1948 trở đi toàn Đảng ta học tập chỉnh phong, ở Việt Bắc, Lý Ban là người giảng những bài đầu tiên, khẩu hiệu “chính trị là thống soái, tư tưởng đi hàng đầu”, trí thức không bằng cục phân đã thấm sâu vào từng đảng viên trung cao cấp. Toàn Đảng đã coi Mao Trạch Đông như thần thánh. Trong dân gian đã phố biến danh xưng “BÁC MAO” với ý thức là Bác MAO còn vĩ đại hơn Bác HỒ. Từng người cộng sản Việt Nam không được phép quên rằng trong Đại hội II năm 1951, có Hoàng Văn Hoan, có Lý Ban (và vân vân…?) có La Quý Ba ngồi chủ tịch Đoàn, có Đoàn cố vấn Trung Quốc nằm bên cạnh.

Đạt được bước một này là Mao Trạch Đông đã giành được thắng lợi cơ bản trong âm mưu thôn tính Việt Nam. Qua được bước một này, gần như Mao muốn làm gì cũng được.

BƯỚC HAI: Là bước chỉnh huấn, chỉnh đảng bắt đầu từ 1952 trở đi, kéo dài cho đến đầu những năm 60. Nhưng quan trọng hơn cả, cơ bản hơn cả là mấy khóa chỉnh đảng Trung ương 1, 2, 3 , v.v,.. mà học viên là toàn là đảng viên trung cao cấp, tiến hành trong 2 năm 1952-1953.

Yêu cầu của chỉnh huấn, chỉnh đảng là khẳng định lập trường quan điểm cách mạng của đảng viên để quyết chiến thắng quân thù. Muốn diệt được kẻ thù bên ngoài thì trước hết phải diệt được kẻ thù ẩn nấp chính trong bản thân từng đảng viên. Phương châm của chỉnh huấn là trị bệnh cứu người, muốn trị được bệnh thì từng đảng viên phải tự vạch ra chỗ yếu, chỗ nào có bệnh hoạn, không và chỉ ra chỗ khoẻ mạnh làm gi, do đó chỉ được nói khuyết điểm, không được nói ưu điểm. Kèm theo phương châm: Người nói không có tội, người nghe phải răn mình, nghĩa là người mới có quyền đao to búa lớn, sỉ vả đồng chí, nếu ai dại dột phản ứng lại sẽ được trả lời ngay là: Đây là tôi đang cứu đồng chí đấy. Chúng ta không được quên rằng: suốt mấy khóa chỉnh Đảng T.Ư. cả một đoàn cố vấn của Mao Trạch Đông đã giám sát chặt chẽ chúng ta. Thực chất là bọn chúng đã chỉ đạo chinh huấn. Trong quá trình chỉnh huấn, chỉnh đảng, vì thực hiện phương châm trị bệnh cứu người nên không ai được nêu ưu điểm của mình, mà chỉ lo sao tìm cho ra khuyết điểm, cố moi móc cho ra khuyết điểm, thậm chí muốn tỏ ra mình là “thành khẩn” nhiều đồng chí đã bịa ra, cố nặn ra khuyết điểm giả tạo. Nếu bị phê là thiếu “thành khẩn” thì cảm thấy như minh phạm trọng tội. Kết quả thực sự của chỉnh huấn là tất cả đảng viên trung cao cấp của Đảng tự thấy mình chỉ còn là cái giẻ rách, không còn là người nữa. Rời lớp chỉnh đảng ra về ai cũng thấy bàng hoàng tê tái, hoang mang, và tự hỏi: Mình là cái gì đây? Và chỉ còn một nếp suy nghĩ duy nhất là phục tùng Trung ương, Trung ương là rất sáng suốt, là tuyệt đối đúng. Thái độ của mỗi người chỉ còn biết là Tuyệt đối phục tùng Trung ương.

Điều gian xảo của Mao Trạch Đông ở đây là: Khi tiến hành chỉnh phong Diên An những năm 40 là thực thi ngay trong hàng ngũ Trung ương ủy viên, vì yêu cầu của Mao lúc này là phải hạ thủ những Trung ương ủy viên kiên định lớp trường quốc tế cộng sản, lấy Liên Xô làm cột trụ, đứng đầu nhóm này là đ/c Vương Minh và y đã thành công mỹ mãn.

Nhưng chỉnh đảng Việt Nam đã tiến hành sau Đại hội II của Đảng, nghĩa là một số đồng ủy viên Trung ương đã tuyệt đối tin tưởng ở Mao Trạch Đông, đã lấy tư tưởng của Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Vậy thì phải bảo vệ Trung ương để làm thần tượng, buộc toàn Đảng phải tin theo. Vì nếu Trung ương ủy viên cũng cùng chỉnh đảng với anh em cán bộ, cũng chỉ được nêu khuyết điểm, không được nêu ưu điểm, rồi anh em cũng phê phán đao to búa lớn. “Trị bệnh cứu người, thì còn đâu là uy tín để lãnh đạo. Đó là thực chất yêu cầu của bước hai.

Từ đó trở đi, mọi đảng viên lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi bị phê bình là mất lập trường, là quan điểm mơ hồ. Một số đồng [chí] do đó đã sa vào cơ hội chủ nghĩa, thấy sự thật hiển nhiên cũng không dám há miệng.

BƯỚC BA là tiến hành cải cách ruộng đất. Yêu cầu của Mao trong bước 3 này là diệt cơ sở Đảng Cộng sản Đông dương để xây dựng một cơ sở Đảng theo tinh thần mới, bao gồm những đảng viên kết nạp trong cải cách ruộng đất. Các cố vấn Trung Quốc đã trực tiếp chỉ đạo bước này, không có Đoàn ủy nào, không có 1 số cố vấn ở bên cạnh để chỉ đạo. Đầu tiên là chỉ đạo thí điểm cải cách ruộng đất ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ (Miền Bắc Thái Nguyên, căn cứ cách mạng, căn cứ kháng chiến).

Hàng mấy ngàn đảng viên Trung cao cấp đã tập trung về đầy để học tập tổng kết thí điểm. Cuộc tổng kết này đã rút ra một kết luận như sau: Tất cả chi bộ nông thôn đều là chi bộ của địch. Hàng ngàn đảng viên đã ‘chấp nhận’ kết luận này, khi đeo ba lô lên vai để triển khai CCRĐ đợt một, về đến xã, mọi người đều hoang mang sợ sệt, gặp nông dân không dám hỏi chuyện vì không biết ai là địch ai là ta – trong lúc cách mạng Việt Nam đi gần bến thắng lợi: chiến thắng Điện Biên Phủ. Ngày chiến thắng đã xảy đến trước khi hoàn thành cải cách ruộng đất đợt 1.

– Tại sao từ 6 xã ở Đại Từ, Miền Bắc Thái Nguyên lại có được kết luận này? Chỉ có thể là nó từ Bắc Kinh luồn sang, thông qua Đoàn cố vấn của Mao Trạch Đông.

– Tại sao hàng ngàn đảng viên Trung cao cấp học tập tổng kết và chấp nhận cái nhận định: Tất cả chi bộ nông thôn đều là chi bộ của địch (kể từ mũi Cà Mau trở ra), chỉ vỉ số đảng viên Trung cao cấp đã trải qua các khóa học tập chỉnh đảng, tự thấy mình không bằng cái giẻ rách, không còn ra người nữa, vậy thì Trung Ương bảo gì nghe nấy. Nếu không có bước hai thi không có bước này. Cái nhận định: Tất cả chi bộ nông thôn đều là chi bộ của địch đã có ý nghĩa gì?

Một là: Đảng ta chỉ còn có T.Ư. ủy viên và tỉnh ủy viên nói chung, để chủ yếu là lãnh đạo địch.

Hai là: các cấp ủy trên của Đảng đều do địch bầu ra. Và nó đã đem lại kết quả như thế nào?

a) Ba vạn đảng viên cơ sở bị bắn.

b) Ba vạn đảng viên tự sát.

c) Từ 3 đến 4 vạn vừa người lớn vừa trẻ con chết đói.

d) Xô Viết Nghệ Tĩnh là một thành tích vang dội thế giới của Đảng Cộng Sản Đông dương, Đảng thành lập vừa xong đã lập ngay được chính quyền Xô Viết đầu tiên ở Châu Á! mà bị ban lãnh đạo cải cách ruộng đất ở Liên khu 4 kết tội là: Xô Viết Nghệ Tĩnh là do bọn phản động nguỵ tạo nên, cán bộ đảng viên Xô Viết Nghệ Tĩnh bị tàn sát gần hết.

e) Khối đại đoàn kết do Hồ Chủ Tịch vun đắp trong bao nhiêu năm đã bị đập nát.

g) Nông thôn Việt Nam trở nên xơ xác về tình cảm giữa người với người, về chính trị, về kinh tế, về xã hội và văn hóa vv…

Một dẫn chứng: Hà Tĩnh có 210 bí thư chi bộ thì 200 bị bắn, còn sót 10 người ở miền núi vì ở đây chưa tiến hành cải cách ruộng đất.

(Tài liệu và số liệu trên đây do đ/c Nguyễn Tạo (lúc bấy giờ làm Vụ Trưởng Vụ chấp pháp thuộc Bộ Công An cung cấp).

BƯỚC BỐN: là “Chỉnh đốn tổ chức”. Nếu bước hai là bước nô dịch hóa tư tưởng của đảng viên trung cao, thì yêu cầu của Mao ở bước 4 này là: diệt đảng viên Trung cao về thể xác.

Để đạt bước này, sau khi Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng cái nhận định:

“Tất cả chi bộ nông thôn đều là chi bộ của địch” đã được đổi là: “Tất cả chi bộ nông thôn đều do tổ chức của quốc dân đảng lồng vào“.

Tất cả đảng viên cơ sở kiên định cách mạng hoạt động suốt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã bị tàn sát gần hết, số còn lại đều là không có năng lực, đồng thời hoang mang sợ sệt, cộng với số đảng viên mới kết nạp trong cải cách ruộng đất tạo thành cơ sở mới của Đảng. Cái cơ sở mới này đã bị cưỡng ép phải tìm cho ra quốc dân Đảng ở địa phương mình. Phần thì non nớt, phần thì sợ sệt, phần thì không nắm được quá trình của phong trào cách mạng của địa phương, biết tìm đâu ra quốc dân đảng ở địa phương, nhưng vẫn bị bắt buộc phải tìm ra, thế rồi không địa phương nào bảo địa phương nào, địa phương nào cũng có “sáng kiến” cho những người đã thoát ly đi hoạt động là quốc dân Đảng, kết quả là một số lớn cán bộ trung cao đã được triệu từ Trung ương, từ tỉnh về để xử tội, cũng may mà mới tiến hành trong 7 tỉnh thì phát hiện ra sai lầm nên chỉ mới có chừng gần 1.000 cán bộ trung cao bị xử bắn.

Đó là kế hoạch 4 bước của Mao nhằm diệt Đảng Cộng sản Đông Dương. Cái kế hoạch mới nham hiểm và độc ác làm sao, và ta cũng phải thừa nhận là nó khoa học và thông minh làm sao? Nếu không hoàn thành bước 1 là toàn Đảng coi tư tưởng Mao Trạch Đông là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình thì không thể tiến hành bước 2 là nô dịch hoá tư tưởng đảng viên trung cao. Nếu tư tưởng đảng viên trung cao không bị nô dịch thì làm sao có thể chấp nhận cái nhận định quái gở: “Tất cả chi bộ nông thôn đều là chi bộ của địch” được, làm sao tự tay cán bộ trung cao lại đi diệt hết cơ sở của Đảng để xây dựng cơ sở mới. Chấp nhận nhận định này đã có nghĩa là phủ định Đảng cộng sản Đông Dương rồi.

Trong tủ sách nào của cán bộ, của nhân dân lại không có 1 tập thơ, trong đó có bài:

Đường sang nước bạn với những câu:

Tôi đã thấy:

Mao Trạch Đông

Dáng người cao lồng lộng

Đẹp như một ngọn cờ hồng,

Trên mặt người, mặt đất mênh mông.

Ta hãy tiếp tục tìm hiểu thêm bàn tay độc ác của Mao thò sang Việt Nam trong một vài lĩnh vực khác.

(3) Ta sẽ tiếp thu của Mao Trạch Đông các phương châm: chính trị là thống soái, tư tưởng đi hàng đầu, tri thức không bằng cục phân một cách hoàn toàn tự giác (consciemment) coi đó là chân lý và áp dụng cho đến ngày nay. Nếu nói rằng chính trị là thống soái là tất cả mọi sinh hoat chính trị kinh tế văn hóa xã hội của một quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối chính trị của tập đoàn lãnh đạo quốc gia thì hoàn toàn đúng đối với bất cứ khu vực nào, nước nào tồn tại trên thế giới này. Ở Việt Nam ta, đường lối chính trị của lãnh đạo đã ảnh hưởng đến đời sống của từng người dân một như thế nào, điều ấy ai chẳng thấy rõ.

Nhưng Việt Nam ta đã áp dụng phương châm “chinh trị là thống soái” ở một góc độ khác, hoàn toàn xa lạ với học thuyết Mác Lênin. Đó là thành phần chủ nghĩa. Ta đã coi những người thuộc thành phần cơ bản bao gồm công nhân, bần cố nông, dân nghèo thành thị bao giờ lập trường tư tưởng chính trị cũng vững vàng, cũng tốt (nhưng tiếc thay giai cấp công nhân Việt Nam lại chưa thành thục vì chưa có đại công nghiệp, mới thoát thân từ nông thôn, còn đang ở trình độ thợ thủ công).

Với nhận định trên nên trong cải cách ruộng đất ta đã chỉ kết nạp có bần cố nông nghĩa là những người mới thoát nên mù chữ, thậm chí còn noi gương điển hình KHẨU TÚ CẦN của Trung quốc, nhiều đội cải cách đã chỉ nhằm những cố nông ngớ ngẩn đần độn để kết nạp. Trong các cơ quan dân chính đảng cũng chỉ nhằm những người dốt nhất về kết nạp vào Đảng, giám mã, cấp dưỡng, liên lạc, bảo vệ, công nhân sửa chữa và vv… Một người trí thức được kết nạp vào Đảng thì thật là sỏi vẩy. Một người có học vị đại học tham gia cách mạng từ 1945, kết nạp vào đảng từ 1946 hoạt động liên tục cho đến nay mà không bao giờ được liệt vào hàng ngũ cán bộ chính trị vì không được vững vàng, nếu cũng người có quá trình hoạt động lâu như vậy mà trình độ văn hóa kém thì đã nghiễm nhiên là cán bộ chính trị, được tham gia cấp ủy lãnh đạo từ lâu rồi.

Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Các Mác và Angels dạy rằng: “về thực tiễn những người cộng sản là bộ phận tiên tiến nhất của các đảng công nhân ở tất cả các nước, về lý luận họ có ưu thế hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ có một nhận thức sáng suốt về điều kiện, về bước tiến và kết quả chung của phong trào vô sản”.

Còn Lênin thì dạy rằng:

“Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản sau khi đã làm giàu trí nhớ của mình bằng tổng số tri thức mà loài người đã xây dựng nên”.

Các bậc thầy của chủ nghĩa cộng sản đã dạy chúng ta như thế đấy, là người cộng sản phải có trình độ đại học là ít nhất. Ta hãy kiểm điểm lại hàng ngũ của ta, chưa kể đến đảng viên nói chung, ngay trong các cấp ủy Tỉnh và Trung ương, hãy hỏi được bao nhiêu người tốt nghiệp đại học, phó tiến sĩ, tiến sĩ mà phần lớn là con em công nông, con em cán bộ sinh ra trong chế độ chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Câu nói cửa miệng phổ biến trong hàng ngũ cán bộ, từ bao năm nay là: Cơ quan nào cũng nát, nó nát bởi vì nó dốt. Nát tới mức: “tệ tham ô, lãng phí trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa còn nghiêm trọng ở hầu hết các ngành, các cấp” đến nỗi Nhà nước phải công khai công bố trên báo chí thì thật là khủng khiếp.

Ta phải nghiêm khắc mà nhận thức đầy đủ rằng tình hình DỐT NÁT này đã tai hại cho cách mạng Việt Nam biết bao nhiêu! đã ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân tới chừng nào?

Mao Trạch Đông đã luồn cái khẩu hiệu chính trị là thống soái vào trong đảng ta, để chống lại học thuyết Mác Lênin, để phá hoại đảng ta như thế đấy. Nó đã tác hại, đang tác hại và còn tiếp tục tác hại không biết đến bao giờ! Các đồng chí ơi! Mau mau có biện pháp cấp cứu để ta thoát khỏi cái vòng vây quỷ quyệt này của Mao Trạch Đông đi!

(4) Cái kim chỉ nam Mao đã làm gì với với hoạt động kinh tế Việt Nam?

Nếu ta đọc bài: “Uốn nắn lại tư tưởng chỉ đạo công tác kinh tế” của Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh số ra ngày 9/4/81 do bản tin tài liệu tham khảo đặc biệt của Việt Nam Thông tấn xã đăng tải lại ngày 9/6/81, thì ta thấy rằng, gần như Trung Quốc làm thế nào ta làm đúng như thế ấy. Xin trích dẫn 1 vài đoạn:

– … “Không căn cứ vào điều kiện khách quan, làm trái quy luật khách quan, coi ảo tưởng thành chân lý, làm việc theo ý muốn chủ quan hoặc đem những việc có khả năng trở thành hiện thực trong tương lai cố gắng ghép vào hiện tại để làm”.

– …”Hình như chỉ có làm cho quan hệ sản xuất biến đổi không ngừng, mới có thể thúc đẩy sức sản xuất phát triển không ngừng. Hơn nữa sự biến đổi này của quan hệ sản xuất lại có thể thoát ly khỏi trình độ hiện có của sức sản xuất, nó hoàn toàn do ý muốn chủ quan của con người định đọat”.

– …”Chúng ta đã hơi nóng vội trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, Trong quá trình đưa hợp tác xã bậc thấp, quá độ lên hợp tác xã bậc cao chúng ta đã bước những bước hơi dài một chút. Khi hợp tác xã bậc thấp còn chưa được thành lập một cách phổ biến chúng ta đã vội đưa lên hợp tác xã bậc cao một cách toàn diện”.

– …”Không phải chỉ quan hệ sản xuất lạc hậu 1 cách nghiêm trọng so với tình trạng của sức sản xuất mới làm cho sức sản xuất bị phá hoại mà quan hệ sản xuất chạy vượt lên trước sức sản xuất thì cũng sẽ làm cho sức sản xuất bị phá họai”.

-… Sai lầm đã có biểu hiện chủ yếu là chỉ tiêu cao, tích lũy nhiều, hiệu quả thấp, tiêu dùng ít, là coi trọng tốc độ, xem nhẹ tỷ lệ cân đối, là coi trọng xây dựng cơ bản, xem nhẹ sản xuất, là coi trọng sản xuất, xem nhẹ đời sống, là coi trọng sản xuất, là coi thường lưu thông phân phối v.v…

… “Qui mô nhập khẩu thiết bị toàn bộ của nước ngoài quá lớn. Theo kinh nghiệm quốc tế một nước nhập vốn nước ngoài nhiều hay ít là phải theo một tỷ lệ nhất định với tình hình xuất khẩu thu nhập ngoại tệ của nước đó ít hay nhiều, nếu vượt quá tỷ lệ bình thường thì sẽ xảy ra tình trạng hoặc là không vay được, hoặc là vay được thì sẽ không trả nợ đúng kỳ hạn được… Mặt khác, khi nhập thiết bị toàn bộ này, chúng ta lại chẳng nghiên cứu xem xét một cách toàn diện khả năng lắp ráp ở trong nước. Theo tính toán muốn hoàn thành việc xây dựng các công trình này, chúng ta còn phải bỏ ra một khoản đầu tư xây dựng lắp đặt đồng bộ… tốn gấp nhiều lần tổng số tiền nhập khẩu các công trình đó… khả năng tài chính vật lực của ta hiện nay không thể đảm đương nổi… chưa so sánh đối chiếu đầy đủ về hình thức lợi dụng tiền vốn nước ngoài và cái giá mà chúng ta phải trả, chúng ta chưa tính toán toàn diện thiệt hơn về việc này”, v,v…

Cứ xem đầy đủ rõ chính ngay kế hoạch 5 năm vừa qua ta đã làm nhiều việc đúng như Trung Quốc đã làm, tuy Mao Trạch Đông đã chết rồi.

(5) Hai việc mà chúng ta cần ghi nhớ đời đời để đời đời căm thù Mao Trạch Đông nó đã lấy danh nghĩa giúp đỡ ta tận tình để phá họai kinh tế của ta cũng tận tình:

Một là: Ta yêu cầu Liên Xô giúp ta làm gang thép Thái Nguyên. Liên Xô nêu ý kiến: “chúng tôi không tin vào số liệu điều tra cơ bản của Pháp, Nhật. Chúng tôi đề nghị chúng tôi qua Việt Nam cùng các đồng chí điều tra cơ bản lại, đồng thời các đồng chí cử cán bộ sang đây học tập kỹ thuật làm gang thép, sau đó hãy tiến hành làm”.

Ta không nghe – Ta nhờ Mao Trạch Đông làm giúp. Thực tế là không có trữ lượng mà kỹ thuật là kỹ thuật của thế kỷ 19. Kết quả là con số không. Tưởng cũng nên công bố con số thiệt hại về tài lực, vật lực và nhân lực để cho toàn dân biết mà căm thù thằng Mao.

Hai là: Mao Trạch Đông xung phong giúp ta xây dựng nhà máy phân đạm Hà Bắc.

Thực tế là: chuyên gia Trung Quốc chưa hề xây dựng nhà máy phân đạm bao giờ, đây là sản phẩm đầu tay của chúng nó. Đến nay kỹ thuật vẫn còn rất trục trặc.

Kết quả là: Nếu đem số than dùng để sản xuất ra 10 tấn phân đạm mà bán đi, thì có thể mua được 20 tấn phân đạm rồi, vẫn còn dư tiền nuôi toàn bộ nhà máy trong thời gian sản xuất ấy.

Đấy, nền công nghiệp nặng của Việt Nam bắt đầu như thế đấy.

(6) về vấn đề ta tiếp thu cái phương châm: “Tự lực Cánh sinh” của Mao.

Kinh nghiệm của thế giới cho biết rằng: Nửa cuối của thế kỷ 19 chỉ có một nước nông nghiệp lạc hậu duy nhất có thể “Tự lực cánh sinh” mà công nghiệp hóa được là Nhật Bản với những chủ trương và biện pháp khá độc đáo nhưng vẫn không tránh khỏi việc bóc lột nông dân nặng nề. Còn sang thế kỷ 20 sau Đại chiến lần thứ nhất, không có một nước nông nghiệp lạc hậu nào có thể tự lực cánh sinh mà công nghiệp hóa nền kinh tế của mình được cả, một là phải nhờ Mỹ, hai là phải nhờ Liên Xô.

Ngay như Liên Xô, sau cách mạng tháng 10 tuy đã có 1 số cơ sở công nghiệp nào đó mà Lênin vẫn phải dựa vào vốn nước ngoài bằng chính sách kinh tế mới vô cùng sáng tạo. Thế mà ở ta, đầu những năm 60 toàn Đảng đã được học tập như sau:

“Giai cấp tư sản thế giới đã bóc lột tàn tệ giai cấp nông dân để có vốn ban đầu mà tiến hành công nghiệp hóa, chúng ra đời, các lỗ chân lông đều vấy bùn và máu từ chân đến đầu, còn ta là xã hội chủ nghĩa thì không được phép bóc lột nông dân như chúng. Mà không còn con đường nào khác là “thắt lưng buộc bụng” để tích lũy.

Đến 1976, trong đại hội 4, chúng ta vẫn áp dụng phương châm “tự lực cánh sinh” của Mao một cách triệt để. Về đường lối kinh tế, Nghị quyết của Đại hội là:

“Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.”

Câu này thật là khó hiểu. Một là: với hoàn cảnh kinh tế bị tàn phá sau bao năm chiến tranh của ta nếu ta có phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ đến tột độ đi nữa cũng chưa chắc đã đủ nuôi nhau, tạo làm sao ra cơ sở để phát triển công nghiệp nặng được. Hai là; không có công nghiệp nặng thì lấy gì để phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Tự lực cánh sinh sao nổi.

Cuối năm 1978 ta ký hiệp định hữu nghị tương trợ dài hạn với Liên Xô. Đầu năm 1980, trong lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đảng, đ/c Tổng Bí thư đã phát biểu:

“Nhằm xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong thời gian lịch sử tương tối ngắn, chúng ta ra sức mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu với Liên Xô và Hội đồng tương trợ kinh tế, coi đó là bộ phận hợp thành của đường lối chiến lược kinh tế, chỗ dựa cực kỳ quan trọng để tạo cơ cấu kinh tế mới, biện pháp có hiệu lực để xây dựng công nghiệp và phát triển công nghiệp”.

Mọi người đã thở phào nhẹ nhõm, tưởng đâu sẽ được giải thoát hoàn toàn, và “vàng hương tống tiễn, gạo muối đưa chân” gửi trả lại cho Mao Trạch Đông và bè lũ của nó cái miếng đòn ‘tự lực cánh sinh” rồi.

Song trên thực tế dường như không hẳn như thế, cái hồn ma tự lực cánh sinh nó vẫn ngoan cố ẩn nấp đâu đấy trong chúng ta, cứ xem những lời phát biểu rất trúc trắc và đầy ẩn ý của đ/c Brơ-giơ-ni-ép thì đủ rõ.

– Tháng 6/1980 khi nhận Huân chương từ tay đ/c Tổng bí thư Lê Duẩn:

a) “Tình hữu nghị chỉ được biểu hiện qua việc làm thực tế mà giá trị của nó phải được kiểm nghiệm qua thời gian”.

– Tháng 9 năm 1981, trong buổi chiêu đãi tiễn đoàn đ/c Lê Duẩn và Tố Hữu:

b) “…Khái niệm về tình hình vừa qua, cũng như quan điểm về tình hình hiện nay, chúng ta không có gì khác nhau mà giống nhau”.

Và cụ thể hơn cả là: Đến ngày hôm nay, Liên Xô và Hội Đồng tương trợ kinh tế vẫn chưa dứt khoát về chỉ tiêu viện trợ kế hoạch 5 năm cho chúng ta, nên ta không có kế hoạch 5 năm (1981-85).

(7) Về chống chủ nghĩa xét lại hiện đại.

Trong quá trình hoạt động của mình, Đảng Cộng Sản Liên Xô chưa hề phạm sai lầm cơ hội hữu khuynh, xét lại hiện đại. Đường lối “bảo vệ hòa bình, chung sống hòa bình, hoà bình tiến lên, giữ gìn hòa bình, hoà hoãn quốc tế” vẫn hoàn toàn chính xác. Đ/c Brơ-giơ-ni-ép và Đảng cộng sản Liên Xô đã áp dụng nó một cách vô cùng sáng tạo và linh hoạt, đó là sự thực hiển nhiên, nó được toàn thể loài người tiến bộ đều hoan nghênh và thực hiện.

Đại hội lần thứ 26 của Đảng Cộng sản Liên Xô nêu rõ: “Ngày nay đối với chúng ta, nhân dân ta cũng như đối với tất cả các dân tộc trên thế giới, không có một vấn đề quốc tế nào quan trọng hơn là vấn về bảo vệ hòa bình”. Khơ-rup-sốp có phạm sai lầm, sai lầm khá nghiêm trọng, và đã bị xử lý với mức độ đúng với sai lầm của ông ta, trong đó không có sai lầm xét lại hiện đại. Còn Mao Trạch Đông thì sao? Trong hơn 10 năm từ 1949 đến 1960, y đã bám chặt lấy Liên Xô, lợi dụng Liên Xô công nghiệp hóa cho mình, y đã bắt đầu có lông có cánh, thì y bắt đầu công khai chống lại Liên Xô. Trong hội nghị 81 Đảng họp ở Mát-sxơ-va năm 1960, y đã bộc lộ đường lối bá quyền nước lớn của y, y đã thấy đường lối của hội nghị 81 Đảng là nguy hại cho mưu đồ bá chủ đại hán của y, y bèn xuyên tạc và thổi phồng những sai lầm của Khơ-rút-sốp lên. Mở một chiến dịch có tính chất quốc tế chống lại Liên Xô, quyết liệt và rầm rộ. Lớn tiếng chửi rủa Liên Xô là đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại, đã từ bỏ chủ nghĩa Mác Lênin, đã đưa đất nước Liên Xô đi vào con đường tư sản hóa, đã gắn cho Liên Xô cái danh hiệu Đế quốc xã hội chủ nghĩa.

Thế là lập tức ở Việt Nam cũng phát động một chiến dịch chống chủ nghĩa xét lại hiện đại, cũng quyết liệt và rầm rộ, kéo dài gần suốt thập kỷ 60. Mao Trạch Đông nói Liên Xô là đế quốc xã hội chủ nghĩa thì ta nói Hội đồng tương trợ kinh tế là 1 tổ chức trá hình của chủ nghĩa thực dân mới, là công cụ nô dịch và bóc lột của Liên Xô đối với các nước XHCN Đông Âu. Có một điều khác với Trung Quốc là Trung Quốc thì trực tiếp công khai chống Liên Xô, còn Việt Nam thì chống chủ yếu trong nội bộ cán bộ đảng viên. Muốn chống chủ nghĩa xét lại ở Việt Nam có hiệu quả, cũng cần nêu cao lên ngọn cờ tư tưởng Mao Trạch Đông”.

Bài phát biểu của đ/c Tổng bí thư trong hội nghị trung ương lần thứ 9 tháng 12 năm 1963, đã bước xuất bản thành sách bán tại các cửa hiệu sách với nhan đề: “Một vài vấn đề trong nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta”, đã có những đoạn như sau:

“Đảng cộng sản Trung Quốc đứng đầu là đ/c Mao Trạch Đông, là người đã thực hiện một cách xuất sắc nhất lời giáo huấn của Lênin vĩ đại. Sự phát triển và sáng tạo đặc sắc nhất của Đảng Cộng sản Trung quốc và đồng chí Mao Trạch Đông đối với lý luận cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác Lênin là lý luận cách mạng lấy nông dân làm quân chủ lực…………………………………đây không phải chỉ có vấn đề lực lượng cách mạng mà còn có một loạt vấn đề về đường lối cách mạng và phương pháp cách mạng, …………………….. với sự thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, lý luận này đã trở thành một chân lý được kiểm nghiệm. Giá trị vĩ đại của lý luận này trước tiên là ở chỗ nó [thật] sự đưa 1/4 loài người vào con ‘đường chuyên chính vô sản.

Lý luận này không còn chỉ đóng khung trong phạm vi Trung Quốc, mà nó đã trở thành một lý luận có tính chất quốc tế và những người Cộng sản Việt Nam chúng ta, do đã học tập và vận dụng lý luận đó một cách sáng tạo nên đã đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đến thắng lợi. Nếu trước đây Lênin đã nói rằng sách lược của cách mạng Nga là một mẫu mực về sách lược cho tất cả mọi người cộng sản trên thế giới, thì ngày nay chúng ta cũng có thể nói rằng sách lược của cách mạng Trung Quốc là mẫu mực về sách lược cho nhiều người cộng sản ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh, Không phải ngẫu nhiên mà Đảng Cộng sản Trung quốc là người đầu tiên sáng tạo ra lý luận cách mạng ấy”…………………………………………………………

Trong Đảng ta cũng có 1 số đồng chí chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại hiện đại.

Để chống lại có hiệu quả sự xâm nhập của chủ nghĩa xét lại vào trong Đảng ta, chúng ta cần làm cho nó không còn có đất để mọc ra, bất kỳ tình hình biến chuyển như thế nào. Nó là một tai họa ghê gớm của phong trào cách mạng, vì một khi đã xâm nhập vào trong Đảng ta nó có thể đục ruỗng tinh thần cách mạng của Đảng và nhân dân ta, nó trở thành tay sai đắc lực cho giai cấp thù địch và là đồng minh khách quan của chủ nghĩa đế quốc….

Chủ nghĩa xét lại hiện đại sẽ bị đánh bại bằng cuộc đấu tranh tư tưởng của những người Macxit Lêninnit……” và thế là cuộc đấu tranh tư tưởng chống chủ nghĩa xét lại ở Việt Nam đã được phát động.

Theo lời giáo huấn trên thì một số đồng chí đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại hiện đại, chủ nghĩa xét lại đã xâm nhập vào Đảng ta đã đục ruỗng tinh thần cách mạng của Đảng và nhân dân ta, “chúng ta cần làm cho nó không còn có đất để mọc ra…”

Song, trên thực tế, Đảng Cộng sản Liên Xô không hề phạm sai lầm xét lại hiện đại bao giờ. Vậy 1 số đ/c ta đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại hiện đại của ai? Từ đâu? Nó đã từ đâu xâm nhập vào Đảng ta để đục ruỗng tinh thần cách mạng của Đảng? Không có gốc thì làm sao có ngọn được.

Vậy mà sau mấy năm học tập đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại hiện đại toàn thể cán bộ và đảng viên đã coi Liên Xô là xét lại, là xa rời chủ nghĩa quốc tế vô sản – là đi vào con đường tư sản hóa – là thực dân mới trá hình, lập ra Hội đồng tương trợ kinh tế làm công cụ bóc lột các nước XHCN ở Đông Âu – là từ bỏ đấu tranh giai cấp v…v…

Kết quả là:

– Cán bộ đảng viên nghe thấy hai tiếng Liên Xô sợ như nghe thấy hủi.

– Trẻ con gặp người Liên Xô ngoài đường cũng chửi.

– Một đ/c lãnh đạo, trên diễn đàn của rạp hát Hồng Hà, khi giảng về chống xét lại đã lớn tiếng tuyên bố rằng:

“Phụ nữ Liên Xô ngày nay sa đọa lắm rồi, nếu đồng chí nào không tin thì cứ lên đứng trước cửa sứ quán Liên Xô, thấy cô nào đèn đẹp, vẫy vẫy một cái là được ngay”.

– Một nữ bác sĩ người Pháp, công tác ở bệnh viện Việt-Xô, là vợ bác sĩ Chánh, khi đi ngoài đường đã bị một sĩ quan Việt Nam ghé vào tận tai chửi: sale soviétique (con mẹ Liên Xô bẩn thỉu).

– Gần 100 cán bộ trung cao bị tù đày lâu năm không được xét xử, hiện nay vẫn còn người chưa được tha.

– 4 Trung ương ủy viên bị khai trừ khỏi Đảng v,v.

Ở Liên Xô không hề tồn tại chủ nghĩa xét lại hiện đại, vậy tại sao lại có cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại hiện đại ở Việt Nam, để làm cho nhân dân và cấp bộ Việt Nam căm ghét Liên Xô?”.

Phải chăng vì ta đã coi sách lược của cách mạng Trung Quốc là mẫu mực về sách lược cho nhiều người cộng sản ở Châu Á, Trung Quốc chống Liên Xô thì ta cũng chống Liên Xô.

III. KẾT LUẬN

Người đang viết mấy dòng này mang nặng một nỗi ưu tư từ lâu ngày, không sao tự giải tỏa được.

Từ vài chục năm nay, khi nhắc đến thiệt hại to lớn của cải cách ruộng đất ai cũng nghĩ rằng trách nhiệm ghê gớm này chỉ thuộc về 1 vài cá nhân đ/c nào đó. Theo tôi thì hoàn toàn không phải thế. Trách nhiệm này đã thuộc về toàn Đảng, nhưng như vậy cũng sai, nói vậy là oan uổng cho các đ/c ở cơ sở, nhất là các đ/c đã bị hy sinh, mà phải nói cho nghiêm khắc và chính xác rằng, trách nhiệm này trước hết thuộc về tất cả các đảng viên trung cao cấp đã học tập Tổng kết thí điểm cải cách ruộng đất ở Đại Từ rồi đi xuống xã công tác. Trong số đó có tôi.

Tôi là đảng viên Đảng Cộng Sản Đông Dương. Bị đế quốc Pháp bắt bớ, tra tấn, và bỏ tù từ 1940 đến 1945, khi bị tra tấn đã giữ vững được khí tiết cách mạng, khi bị tù đày không hề sờn lòng, vẫn hăng hái xung phong trong mọi công tác cách mạng, đã mấy lần vào sinh ra tử, coi cái chết như sợi lông hồng. Ngày nay suy ngẫm lại cuộc đời mình, tôi tự thấy rằng: cả cuộc đời mình, chưa bao giờ tinh thần tôi lại lâng lâng sảng khoái như mấy năm hoạt động ở trong tù.

Ngày nay, ngồi viết mấy dòng này, đầu gục xuống, nước mắt lưng tròng, Đau đớn ư? Không phải, ăn năn hối hận ư? Cũng không phải.

Tôi đã có một quá trình hoạt động cách mạng đáng kể, có biết bao kinh nghiệm cách mạng, lại đồng thời cũng có một trình độ văn hóa và kiến thức không đến nỗi tồi, ở trong tù đã tham gia dạy anh em cả Pháp văn, cả Hoa văn. Tuổi đời cũng dày dạn rồi.

Ấy thế mà không hiểu tại sao hay là “gặp phải năm xui tháng hạn” chăng mà thằng Mao Trạch Đông có bảo gì nghe nấy.

Nó bảo:

Liên Xô là chủ nghĩa thực dân mới trá hình để bóc lột các nước anh em, cũng vâng.

Nó bảo:

Chính trị là thống soái, trí thức không bằng cục phân. Dạ đúng quá.

Nó bảo:

Phải tự lực cánh sinh để công nghiệp hóa thì mới không mất độc lập chủ quyền – cũng vâng, như thế mới thật sự cách mạng.

Thậm chí nó bảo:

Tất cả chi bộ ở nông thôn Việt Nam đều là chi bộ của địch mà tôi cũng chấp nhận được – Nhưng nếu chỉ chấp nhận không thôi cũng là quá xấu xa rồi. Đàng này tôi đã chấp nhận cái nhận định vừa độc ác vừa quá phi lý ấy để vác ba lô lên vai, đi xuống xã tham gia việc bắn giết đồng chí minh, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của mấy thằng cố vấn Trung Quốc. Đau đớn biết bao! Tủi nhục biết bao!

Tôi sống đã quá nhiều năm tháng rồi, tóc trên đầu chỉ còn có một nửa và đã bạc hết, không còn một sợi nào đen, răng long gần hết, phải dùng răng giả. Gần đất xa trời rồi, ấy thế mà kéo lê những ngày tàn để đợi chết cũng không yên, cái ác mộng cải cách ruộng đất thỉnh thoảng lại đến chụp lấy tôi để dày vò.

Mấy ngày nay, ngồi suy nghĩ viết bản đề cương này, viết xong lòng thật nhẹ nhõm, trước khi chết tôi đã vạch trần được tim đen của con quỷ sứ Mao Trạch Đông.

Tôi kêu gọi tất cả các đồng chí Đảng Cộng sản Đông Dương đã cùng tôi sống chung trong các nhà tù, đã cùng tôi đi học tập tổng kết thí điểm cải cách ruộng đất ở Đại Từ, rồi cũng đã cùng tôi trực tiếp tiến hành cải cách ruộng đất (hoặc ở các Đoàn ủy, hoặc ở các đội) và chúng ta đã hò nhau bắn giết đồng chí mình, hãy ghé vai san sẻ bớt cho tôi gánh ưu tư vừa quá nặng, vừa kinh hoàng này.

Vạch trần được ruột gan thằng Mao, đồng thời được cùng các đồng chí than thở tâm sự, trước khi từ bỏ cõi đời này lòng tôi sẽ được khuây khỏa phần nào đó.

Các đồng chí hãy cùng tôi hô lớn: Đông Dương Cộng sản Đảng bất diệt!

Tháng 02-1983

CHU ĐÌNH XƯƠNG

31 Nguyễn Đình Chiểu Hà Nội

Bình Luận từ Facebook
Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Thành tựu lớn nhất đời người là khoan dung

Thành tựu lớn nhất đời người là khoan dung

Ngọc Mai | DKN 9 giờ tới 289 lượt xem
sự khoan dung
Ảnh minh họa: Shutterstock.
Có câu nói như thế này: Dung lượng trái tim của một người rộng lớn như thế nào thì thế giới của họ rộng lớn như thế.

Victor Hugo cũng từng nói “Có điều to lớn hơn đại dương, đó chính là bầu trời; có điều to lớn hơn bầu trời, đó chính là nội tâm của một người” (Nguyên văn: There is one spectacle grander than the sea, that is the sky; there is one spectacle grander than the sky, that is the interior of the soul)

Thành tựu lớn nhất của đời người là lòng khoan dung.

Khoan dung không phải sự yếu hèn, không phải nhu nhược mà là không nhớ lỗi lầm của người, thấy người kém không kiêu ngạo, thấy người giỏi không tự ti, thấy người gặp khó khăn thì có thể bù đắp chỗ thiếu sót và giúp họ phát huy ưu điểm.

Chuyện chậu lan của vị hòa thượng

Lão hòa thượng trồng một chậu hoa lan xinh đẹp. Hoa lan cũng nhờ vào sự chăm sóc của ông mà lớn lên khỏe mạnh và thanh tú. Một lần, ông phải đi ra ngoài có việc một thời gian, ông liền giao chậu lan lại cho tiểu hòa thượng nhờ chăm sóc.

Một hôm, tiểu hòa thượng sau khi tưới nước cho hoa liền đặt chậu lan ở bệ cửa sổ rồi ra ngoài làm việc. Thế rồi mưa to xối xuống, gió to làm chậu lan rơi xuống mặt đất vỡ tan. Khi tiểu hòa thượng trở về thấy chậu lan chỉ còn cành lá gãy rập, héo úa dưới đất. Cậu vừa đau lòng vừa lo sợ sư phụ sẽ quở trách.

Sư phụ và đồ đệ
Ảnh minh họa: Shutterstock.

Khi vị sư già trở lại, tiểu hòa thượng đã chuẩn bị tinh thần bị phạt. Nhưng sư phụ cậu chỉ cười cười, không trách mắng chút nào. Tiểu hòa thượng bất ngờ: “Sư phụ, người không tức giận sao? Sao lại không trách mắng con?”.

Lão sư cười nhạt một tiếng: “Ta trồng hoa lan không phải vì để tức giận”.

Chỉ một câu nói đơn giản nhưng lại thể hiện một người có tấm lòng bao dung rộng lượng và cởi mở với cuộc đời.

Thế giới xung quanh chính là phản ánh nội tâm của bạn

Lão hòa thượng trồng hoa không phải để nổi giận. Tương tự như vậy, chúng ta học tập để không phải để tức giận. Chúng ta làm việc không phải để để tức giận. Chúng ta yêu thương không phải để tức giận. Chúng ta sống không phải để tức giận.

Nếu bạn ôm giữ hận thù, cuộc sống xung quanh đều là những điều không vừa mắt.

Nếu bạn ôm giữ lòng biết ơn, thế gian khắp nơi đều là lòng cảm ân.

Nếu dung lượng tâm của bạn lớn lên, sức chịu đựng của bạn cũng lớn lên, những điều người khác không vừa mắt, đối với bạn cũng có thể xem rất nhẹ nhàng.

Dù bạn không thể chọn những điều sẽ xảy ra với bản thân, bạn vẫn có thể lựa chọn thái độ đối với những khó khăn trong đời người. Bạn có thể ôm giữ oán hận hoặc thái độ tiêu cực trong nghịch cảnh; bạn cũng có thể rèn luyện nội tâm vững vàng trước những sóng gió. Chỉ là bạn sẽ chọn con đường nào?

khoan dung
Ảnh minh họa: Shutterstock.

Đời người 8, 9 phần là không như ý, những chuyện muốn gì được nấy, mọi việc đều toại nguyện là rất ít.

Người khoan dung bề ngoài dù xinh đẹp hay tầm thường, ở bên trong cũng là nội tâm quảng đại, tấm lòng rộng mở, có thể dung chứa vạn vật, độ lượng với mọi người.

Người khoan dung thường suy nghĩ cho người khác, chân thành không kiêu ngạo, lòng dạ thoáng đãng. Họ mang khí chất khiêm nhường của người quân tử “người quân tử trong sáng vô tư, kẻ tiểu nhân thường mang ưu sầu”.

Làm thế nào mới có thể nuôi dưỡng lòng bao dung?

Thật dễ dàng chỉ trích thiếu sót người khác, oán trách lỗi lầm của người, phàn nàn và phán xét về những quyết định sai của họ. Những hành động tiêu cực ấy, chắc chắn sẽ không thể mang lại tác dụng tích cực, vì nó dựa trên quan điểm của bản thân để phán xét sự việc, là xuất phát từ “Vị tư” (Vì mình). Hãy thử đổi góc độ, đứng từ “Vị tha” (vì người khác) mà xét vấn đề, thực sự xuất phát điểm “muốn tốt cho người khác” chứ không phải “muốn người khác phù hợp với quan điểm của mình”.

Khi một người không phàn nàn về người khác, người ấy đã tránh xa khỏi oán hận. Khi một người không ghét bỏ người khác, người ấy đã tránh xa khỏi thù hận. Người có đạo đức cao thượng luôn biết cách phân biệt Chính – tà và lánh xa thù hận. Chỉ khi lánh xa thù hận, người ấy mới nảy sinh lòng khoan dung.

Một người khoan dung chân chính phát xuất ra ánh hào quang của từ bi và tường hòa. Hào quang ấy chiếu sáng những người xung quanh và chính bản thân họ. Khi một người thực sự khoan dung từ nội tâm, không oán không hận, người ấy mới có thể cảm nhận được hạnh phúc chân chính. Họ sẽ được ban phúc lành và con đường sẽ rộng mở trước mặt họ.

Ngược lại, một người tâm đầy thù hận sẽ không bao giờ thực sự thiện với người khác. Ngọn lửa hận thù sẽ che mờ lý trí của họ. Nó cũng giống một thanh gươm tẩm độc, không những làm người khác bị thương, mà còn làm hại chính chủ nhân của nó.

Ngọc Mai
Tham khảo Sound of Hope, Chánh Kiến

Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Hồ Chí Minh trong nhận thức của người hậu thế

Hồ Chí Minh trong nhận thức của người hậu thế

Lê Quang Ngọ  Lê Quí Trọng

23-8-2020

Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông nghỉ mát tắm biển Bắc Đới Hà (北戴河). Hình chụp tháng 8/1960. Nguồn: Artron.net

Hồ Chí Minh là một chính khách cộng sản nổi trội trong lịch sử đương đại Việt Nam, tên tuổi của ông có nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy và tình cảm đa dạng của nhiều thế hệ người dân nước Việt kể từ năm 1945 đến nay. Mặc dù tính đến ngày 2/9 này ông đã qua đời 51 năm, nhưng ảnh hưởng chính trị của ông vẫn sống mãi trong sự nghiệp của đảng CSVN. Do vậy, tên tuổi và hình bóng của ông vẫn luôn luôn hiện hữu sáng chói trong cuộc sống của những người dân sống dưới sự lãnh đạo của đảng do ông thành lập.

Năm 2020 này cái tên của ông còn được xuất hiện với tần suất cao hơn cả mức bình thường, bởi những ngày lễ lớn năm nay của đất nước đều có liên quan đến cái tên Hồ Chí Minh. Trong lễ kỷ niệm 130 năm ngày sinh của ông trong tháng Năm vừa qua, tất cả những lời hoa mỹ nhất của ngôn từ tiếng Việt lại được sử dụng tối đa để vinh danh ông: “Vị cha già của dân tộc, Lãnh tụ thiên tài, Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, Người chiến sĩ Cộng sản quốc tế mẫu mực, Người bạn thân thiết của các dân tộc yêu chuộng hòa bình và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới”. (1)

Lúc sinh thời Hồ Chí Minh từng nói,“ở đời, ai cũng là người thường, không có ai là thần thánh, nghĩa là ‘nhân vô thập toàn‘, không có ai là hoàn toàn. Đã sống ở đời thì ai cũng có khuyết điểm”. (2) Ông thường dạy những người khác tránh vướng vào các khuyết điểm của người trần tục nhưng ông cũng phải tự nhận bản thân có hai khuyết điểm lớn là hút thuốc lá và không lấy vợ. Vì vậy những người viết bài này muốn tìm hiểu, ông thật sự có phải là con người hoàn mỹ như được ca tụng không.

Qua việc lĩnh hội hàng loạt bài báo, những mẩu chuyện viết về ông, những người viết bài này lại có những nhận thức trái ngược với sự kiên trì định hướng dự luận của đảng. Đó là Hồ Chí Minh thật sự không phải là một thánh nhân như đảng đã dày công tuyên truyền. Một người có học vấn bình thường, có tư duy độc lập và miễn dịch với thông tin một chiều có thể dễ dàng nhận thấy ông là một con người đầy mâu thuẫn, sự mâu thuẫn của ông thể hiện trong lý luận, giữa lý luận và thực tiễn và cuộc đời ông là cả một bi kịch mà những người cuồng tín cũng khó noi theo.

Trong bài viết này, chúng tôi xin phép được đề cập đến một số khía cạnh mà ông được ca tụng như kể trên, và xin lấy cụm từ “thiên tài” làm cơ sở để xem xét các tài năng thiên bẩm của ông. Vậy thiên tài là gì? Theo Wikipedia, thiên tài là một danh từ dùng để nói về điều gì đó hoặc ai đó thông minh một cách xuất sắc, làm việc một cách xuất sắc hoặc đạt được thành tựu vĩ đại. Thiên tài không phải là người có đầu óc sáng tạo và thông minh bình thường. Chữ thiên tài thường gắn liền với những thành tựu chưa từng thấy bao giờ. Thiên tài là một người có năng khiếu, năng lực bẩm sinh hoặc có thành tựu vượt xa bất cứ những người nào khác trong cùng một lĩnh vực.

Để tìm hiểu, bài viết này xin dẫn dắt người đọc vào thời kỳ Hồ Chí Minh đã bước ra vũ đài chính trị đất nước sau khi cướp được chính quyền vào mùa thu 75 năm trước và trình diễn tài năng suốt 24 năm tròn.

Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, được ông trình bày trước toàn dân ông đã trích dẫn Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 để lên án thực dân Pháp đã vi phạm các quyền căn bản ấy trong suốt thời gian đô hộ đất nước Việt Nam: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, nhưng ngay sau đó không lâu “Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời, ban hành các sắc lệnh giải tán một số đảng phái,với lý do các đảng này tư thông với ngoại quốc, làm phương hại đến nền độc lập Việt Nam (như Việt Nam Quốc xãĐại Việt Quốc dân đảng…) nhằm kịp thời trừng trị bọn phản cách mạng, bảo vệ chính quyền non trẻ đồng thời giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác cho nhân dân, đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những người bị coi là nguy hiểm cho nền độc lập của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giải tán các nghiệp đoàn để kiểm soát nền kinh tế”. (3)

Cũng dễ hiểu, cướp chính quyền là công của Việt Minh, thành quả đó không thể chia xẻ cho những đảng phái ngồi mát muốn ăn bát vàng. Vì vậy trong giai đoạn mới hình thành, để có tính chính danh, Hồ Chí Minh tạm thời đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu với sự thực hiện triệt để chính sách đại đoàn kết dân tộc bằng cách mở rộng các thành phần trong Chính phủ và Quốc hội nhưng những người của các đảng phái khác “chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của Nội các”. Là người cộng sản ông hoàn toàn không muốn đa nguyên chính trị, vì vậy ông giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn “nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng phái này trong dân chúng”.

Những đảng phái này cũng là những tổ chức của những người yêu nước nhưng vì không cùng quan điểm chính trị cho nên không thể nào cạnh tranh trong nghị trường được với đảng có thủ lĩnh là một ngưởi “được đào tạo chính quy về chủ nghĩa Marx, tuyên truyền và khởi nghĩa vũ trang”. Mặc dù ông trả lời các nhà báo nước ngoài sau kết quả cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam: “Trong một nước dân chủ thì mọi người đều có tự do tin tưởng, tự do tổ chức. Nhưng vì hoàn cảnh và trách nhiệm, tôi phải đứng ra ngoài mọi đảng phái”. (4)

Nói thì vậy nhưng không phải vậy, sự đứng ngoài của ông được chứng minh khi ông đang thăm Pháp vào mùa hè năm 1946 thì Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch trấn áp tất cả các đảng phái đối lập được Việt Minh coi là nguy hiểm như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, những người Trotskist, lực lượng chính trị Công giáo… bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các sĩ quan Nhật Bản trốn tại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp cho chiến dịch này”. Như vậy, bắt đầu từ đây Hồ Chí Minh thật ra chỉ kiên trì đấu tranh vì độc lập, tự do độc quyền lãnh đạo đất nước cho ông và đảng ông mà thôi.

Ông trả lời các nhà báo trong buổi phỏng vấn kể trên: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho đất nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Để đất nước hoàn toàn độc lập, cần có một chính phủ có đường lối độc lập nhưng để giữ được chính quyền và chống được giặc Pháp ông đã cầu cạnh đến sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô, mặc dù ông đã từng “xem những đảng phái quốc gia thân Trung Hoa Dân quốc như Việt CáchViệt Quốc là bọn quốc gia giả hiệu, đầy tớ của Trung Hoa Quốc dân Đảng và không có liên hệ gì với nhân dân Việt Nam.

Vào thời điểm từ năm 1945 – 1946, lập trường tư tưởng của Hồ Chí Minh thật sự không vững vàng, ông muốn ngả theo Mỹ để ngăn cản Pháp quay trở lại chiếm Đông Dương: “Ông tìm cách làm Mỹ tin rằng ông không phải là một phái viên của Quốc tế Cộng sản mà là một người Quốc gia – Xã hội mong muốn giải thoát đất nước khỏi ách đô hộ của ngoại bang” (5). Ông nợ Liên Xô vì sự đào tạo của họ nhưng ông đã trả lại bằng 15 năm công tác đảng, và không có bất cứ cam kết nào khác với Liên Xô“. (4) và “đặt nhiều tin tưởng vào sự giúp đỡ của Mỹ trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô“ (5).

Lịch sử Việt Nam chắc chắn sẽ rẽ theo một hướng đi khác tốt đẹp hơn, giá như vào thời điểm đó Tổng thống Mỹ Harry Truman không bị gốc gác con người Hồ Chí Minh ám ảnh, mà tiếp tục liên lạc, giúp đỡ nhà nước Việt Nam mới được thành lập và như vậy sẽ không có Chiến tranh Đông Dương cũng như lịch sử thế giới sẽ không xuất hiện cụm từ Chiến tranh Việt Nam. Thế mới biết sự sai lầm về đường lối của nguyên thủ quốc gia mang lại cho đất nước những hậu quả tai hại như thế nào.

Trên thế giới thì như vậy, trong nước giới trung lưu cũng không ưa cộng sản “nên ông phải làm mọi cách để gạt bỏ cái nhãn hiệu nói trên” (4) bằng cách cho đảng ông rút vào hoạt động bí mật nhằm bảo toàn lực lượng và mở rộng khối đoàn kết dân tộc. Trong tình thế đơn độc chống chọi với quân đội Pháp, khiến cho Hồ Chí Minh hồi tâm quay lại với những người cộng sản quốc tế của mình.

Sau khi nước Công hòa Nhân dân Trung hoa ra đời thì hơn hai tháng sau Hồ Chí Minh đã bí mật sang Trung Quốc để nhờ nối mối quan hệ với các nước cộng sản qua sự giới thiệu của Mao Trạch Đông. Chuyến đi này “có ý nghĩa đặc biệt, nhất là trong vấn đề Trung Quốc và Liên Xô hỗ trợ chính phủ Bắc Việt Nam phát triển chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và chống Pháp“. (6)

Và sau khi Stalin giao cho Trung Quốc nhiệm vụ giúp đỡ Việt Nam thì bắt đầu từ đây “hệ lụy đã nằm lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản Việt Nam: vị trí đàn em, bên dưới, yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một tư thế ứng xử với Trung Quốc. Xuân Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng định với Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung Quốc“ và “chính Bác tự nguyện nhận mình chỉ nêu ra được có tác phong, còn tư tưởng, lý luận thì để cho Mao Chủ tịch” (7).

Sau khi đã được cộng đồng các nước XHCN công nhận và giúp đỡ vật chất, Hồ Chí Minh đã tổ chức đại hội đảng toàn quốc lần 2 và quyết định đưa đảng của ông hoạt động công khai trở lại với tên mới là đảng Lao động Việt Nam và “khởi xướng Cải cách ruộng đất nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là “bóc lột”, “phản quốc” (những người theo Pháp, chống lại đất nước), “phản động” (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập… để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng” (6) .

Để đẹp lòng phe XHCN, “tháng 10 năm 1952, Hồ Chí Minh đã gửi bản ‘chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam‘ cho Stalin để ‘đề nghị xem xét và cho chỉ dẫn‘ và cho biết chương trình hành động được lập bởi chính ông dưới sự giúp đỡ của Lưu Thiếu Kỳ“. Cuộc Cải cách ruộng đất (CCRĐ) đã diễn ra dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Trung Quốc khiến cho Hồ Chí Minh “buộc phải thay đổi đường lối dẫn ta đến sai lầm trong cải cách rưộng đất”. (8).

Mặc dù trong CCRĐ ông không ủng hộ việc xử bắn bà Nguyễn thị Năm, nhưng do sợ mất lập trường trước cố vấn Trung Quốc nên ông nói: “Thôi, tôi theo đa số chứ tôi vẫn cứ cho là không phải”. Tuy “cứ cho là không phải” nhưng ông vẫn dành thời gian hiếm hoi đến tận nơi để theo dõi buổi đấu tố bà Cát Hanh Long để sau đó viết bài báo “Địa chủ ác ghê” với bút danh C.B. đăng trên báo Cứu quốc.

Như vậy chặng thời gian từ khi phát ngôn câu “Người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa” đến khi viết đăng bài báo này mà nhân vật bị kết tội đã từng được Hồ Chí Minh ca ngợi trước đó trong báo cáo chính trị tại đại hội đảng toàn quốc lần thứ 2 là “Những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ” thể hiện một sự băng hoại nhân cách của con người mà đảng không tiếc lời ca tụng.

Bài báo Địa chủ ác ghê của tác giả C.B. mà sau này mọi người đều biết đó là HCM. Ảnh trên mạng

 

Ngay bản thân Hồ chí Minh đường đường là “cha già dân tộc“ nhưng vì đã chấp nhận thần phục nên cũng không được để yên: “Họ ‘sửa‘ khá nhiều nên Bác đau lòng: Bao nhiêu nhân sĩ Bác lôi kéo tranh thủ, sau đó phải gạt hết, có những người còn bị đấu tố nữa”. Để rồi con người “đại nhân, đại trí“ này đã khóc thú nhận sai lầm trước quốc dân (9).

Với sự nỗ lực vượt bậc Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những gì ông được đào tạo ở Liên Xô (cũ) cùng kinh nghiệm những năm hoạt động ở nước ngoài vào thực tiễn ở Việt Nam và đã thành công góp phần gây ảnh hưởng CNCS ra toàn thế giới, nhưng sau khi giải phóng miền Bắc thì việc kinh bang tế thế của ông không có gì nổi trội, cũng có thể do hình thái kinh tế – xã hội mới đã kìm hãm tài năng của ông.

Nhằm khôi phục kinh tế sau khi đã giải phóng miền Bắc, Hồ Chí Minh vẫn lấy cảm hứng từ các kinh nghiệm xây dựng đất nước của Trung Quốc, khiến cho đảng lại mắc tiếp sai lầm. “Đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là do Trung Quốc đề ra. Hậu quả là hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội cho Pháp, Mỹ điều đó chỉ đúng một phần nào, còn là do ta làm vội, làm ẩu, đánh tràn lan hết. Không phải địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng bị đánh. Đảng viên nhiều người tốt cũng bị đánh. Kết quả của những chính sách cải cách lúc đó là như thế”. (8)

Theo “Giọt nước trong biển cả“ của Hoàng Văn Hoan, thì ngay sau năm 1954 theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, Trung Quốc đã đưa người và các thiết bị kỹ thuật sang giúp Việt Nam khôi phục kinh tế sau chiến tranh, cũng như xây dựng một nền kinh tế tương đối toàn diện để làm cơ sở vật chất, thực hiện tư lực cánh sinh cũng như viện trợ các loại hàng hóa dùng để chi viện tiền tuyến và giải quyết đời sống cho nhân dân, khiến cho ông từng khẳng định: “Bác tuyệt đối tín nhiệm các cố vấn Trung Quốc”  “Tinh thần quốc tế cao cả đó và tình thân ái của nhân dân Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam làm chúng ta rất cảm động và biết ơn”. (10)

Trong các chuyến đi thăm Trung Quốc, Hồ Chí Minh thường thấy sự nghiệp xây dựng CNXH ở đó là tấm gương lớn để Việt Nam noi theo và học tập. Các phong trào thi đua với các điển hình tiên tiến ở Trung Quốc đã gây ấn tượng với Hồ Chí Minh và tại miền Bắc cũng nở rộ các phong trào thi đua “Gió Đại Phong, Sóng Duyên Hải”. Và khi các chiến lược của Mao nhằm bẫy những người có quan điểm trái ngược với đảng lộ mình, thì “Hồ Chí Minh dùng bút danh Trần Lực, đăng một bài trên báo Nhân dân ngày 16 tháng 9 năm 1957 với tựa đề ‘Đập tan tư tưởng hữu khuynh‘, lên án đó là tư tưởng độc hại và dễ lan tràn như cỏ dại, sau đó Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm bị dập tắt”. (11)

Hồ Chí Minh nêu ra mục đích xây dựng xã hội mới vì “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” (12) và để mọi người thấy rõ con đường tất yếu của đất nước, ông còn viết các bài báo nêu lên cảnh sống khổ cực của tầng lớp dân nghèo trong chế độ tư bản với các bút danh khác nhau, trong số đó có một bài viết được ông chơi chữ với nhan đề ‘Mỹ mà không đẹp‘ (13).

Vậy trong thực tế người dân miền Bắc thời đó được sống ra sao? Dưới thời ông vào buổi tối hàng ngày tổ trưởng dân phố đến từng nhà để chủ hộ khai báo vào sổ tạm trú tạm vắng của khu vực. Đi đâu phải có giấy Thông hành và chủ nghĩa lý lịch đã gây ra sự bất bình đẳng xã hội, làm thui chột nhiều khát vọng và hoài bão đẹp của nhiều thế hệ thanh niên không nằm trong thành phần cốt cán của chế độ, mặc dù ông đã nói: “Chính phủ không để tâm moi ra những tội cũ để đem ra làm án mới làm gì” (14).

Dưới nền kinh tế kế hoạch hóa mà ông theo đuổi qua “mô hình kinh tế tự cung tự cấp ở miền Bắc, đồng thời hạ thấp vai trò của viện trợ nước ngoài mà chủ yếu đến từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác”, cũng như bỏ ngoài tai ý kiến của các chuyên gia đề xuất Việt Nam nên tham gia vào Hội đồng Tương trợ Kinh tế của khối các nước cộng sản (15), ông đề ra khẩu hiệu: “Nhanh, nhiều, tốt, rẻ” để thúc đẩy sản xuất. Bốn tiêu chí này đứng cạnh nhau thể hiện sự mâu thuẫn của việc duy ý chí, chữ tốt đối lập với ba chữ đứng ở vế bên kia. Nền kinh tế Việt Nam lúc đó phụ thuộc phần lớn vào năng suất lao động thủ công, vậy nếu coi trọng vế này thì phải chỉnh sửa vế kia, không thể nào đáp ứng cả bốn tiêu chí trong cùng một mong muốn.

Rồi sau đó ông lại kêu gọi tinh thần yêu nước của người dân: “Mỗi người làm việc bằng hai, vì đồng bào miền Nam ruột thịt”. Mặc dù tinh thần và khí thế cách mạng cao như vậy nhưng người tiêu dùng thời gian đó bước vào cửa hàng Bách hóa Tổng hợp, cửa hàng siêu thị lớn nhất Hà Nội, nơi thể hiện bộ mặt phồn vinh của chế độ nằm ở góc phố Tràng Tiền và Hàng Bài, khó có thể mua được các mặt hàng phục vụ đời sống thiết yếu. Phần lớn những mặt hàng bày trên giá điều có kèm theo dòng chữ “HÀNG MẪU KHÔNG BÁN”, chúng được trang trí để làm giảm bớt sự trống trải hàng hóa của cửa hàng và chỉ được bán theo tiêu chuẩn phân phối và giấy giới thiệu.

Ngày nay những ai muốn hiểu rõ một phần mô hình cái thiên đường XHCN dưới thời đại Hồ Chí Minh xin hãy ghé thăm khu nhà tập thể của nhà máy Văn phòng phẩm Hồng Hà tại ngõ 190 phố Lò Đúc, Hà Nội. Nơi đây người dân bước ra khỏi cánh cửa căn phòng duy nhất của cả gia đình là được tiếp xúc ngay với môi trường cộng cộng, để mọi người có ý thức thực hành, hướng lên XHCN qua các sự chung đụng từ hành lang, khu bếp, khu vệ sinh, khu nhà tắm của mỗi tầng nhà.

Và thành quả “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh” của ông được thể hiện rõ nét ngắn gọn qua đoạn phim thời sự dài gần 8 phút (phút thứ 36,47- 44,09) trong chương trình Giai điệu tự hào tháng 10 năm 2019, với tiêu đề ‘Đi giữa biển vàng‘ của Đài truyền hình Việt Nam, đoạn phim được mở đầu bằng câu nói “Có một thời như thế!” và kết thúc bằng câu: “Có một thời bao cấp như vậy!” (16). Với “cái đói trường kỳ khiến mỗi suy nghĩ của một ngày chỉ xoay quanh vấn đề miếng ăn”, thì làm sao những người dân của ông với tinh thần làm chủ tập thể có thể đem hết sức mình ra để cống hiến cho chế độ được.

Sau 9 năm ông điều hành công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chặng đường tiến lên CNXH, thì tại Hội nghị trung ương 9 “chuyên gia kinh tế Bùi Công Trừng đã giải thích rằng tình hình kinh tế Việt Nam DCCH là cực kỳ căng thẳng”. (15) vì vậy năm 1966 ông không còn lạc quan cách mạng được nữa, mà đã huấn thị thuộc cấp của ông: “Không sợ thiếu chỉ sợ phân chia không công bằng; Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên” (17).

Như vậy giữa không sợ và chỉ sợ có một khoảng cách lớn về trách nhiệm, nó làm cho những người ‘đầy tớ của dân‘ dù mẫn cán đến đâu cũng ưu tiên lo thi hành những gì chỉ sợ trước và những gì không sợ là nhiệm vụ thứ yếu. Vì vậy chính phủ của ông chỉ lo sao cho người dân luôn phụ thuộc kinh tế vào nhà nước bằng cách phân chia tiêu chuẩn theo chế độ tem phiếu. Do đó mới xảy ra hiện tượng ngăn sông cấm chợ, cửa quyền trong lưu thông phân phối “mua như xin, bán như cho”.

Đọc qua câu nói nêu trên của ông người ta sẽ thấy vế thứ hai có sự mâu thuẫn. Bởi đã nghèo đói thì lòng sao yên được. Nhưng trên thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Dân đói thì dễ trị cho nên ông và đảng “không sợ nghèo” và đã thành công trong vấn đề bần cùng hóa xã hội miền Bắc thời bấy giờ và cả Việt Nam sau năm 1975 qua việc kiểm soát được từng cái dạ dày của người dân. Do nắm được nguyên lý “Vật chất quyết định ý thức” (Karl Marx) cùng với việc thắt chặt chuyên chính vô sản, Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo đảng đã hóa giải được cái “chỉ sợ” trong vế thứ hai của câu nó đó.

Năm 1946 Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào Nam Bộ, trong thư của ông có đoạn: Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta” và “Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ”. Như vậy, mặc nhiên ông thừa nhận một xã hội bao gồm nhiều thành phần dân chúng với các trình độ nhận thức, các tập tục và các quan điểm chính trị khác nhau. Nhưng những gì người ta thấy được rõ ràng ông không muốn trong đàn cừu mà ông chăn dắt xuất hiện những con cừu đen.

Trong phong trào Thực hiện nếp sống mới thời đó những thanh niên mặc áo kẻ ca rô, quần không ly hoặc ống tuýp, tóc dài đít vịt đã là những cái gai trong mắt nhà chức trách. Vì vậy việc dập tắt cuộc nổi dậy của người dân Quỳnh Lưu, Nghệ An năm 1956, thanh trừng các văn nghệ sĩ trong phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm, bắt giam tất cả những người liên quan đến chính quyền cũ, từ lý trưởng trở lên, trước khi xảy ra cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc và bắt giam không xét xử các nhân vật quan trọng của đảng và nhà nước trong vụ án ‘Xét lại chống Đảng‘ cũng là điều dễ hiểu.

Cũng qua vụ án Xét lại chống Đảng, người ta lại nhận thấy ông Hồ sống không có hậu. Ông biết những người đã sát cánh làm việc cùng ông trong những năm khó khăn gian khổ bị Lê Đức Thọ bắt giam nhưng ông không hề tìm hiểu và can thiệp. Trong những ngày trốn tránh Tàu Tưởng ông đã từng nghỉ tại nhà ông Vũ Đình Huỳnh, người thư ký của ông, và được gia đình này chăm sóc chu đáo. Ông biết sự việc nhưng ông im lặng. Sự im lặng của ông không chỉ gây ra sự sụp đổ niềm tin về vị thánh nhân của các đồng chí của ông, mà còn dẫn đến sự chia tay ý thức hệ cùng thần tượng của con trai ông Vũ Đình Huỳnh để rồi dẫn đến sự ra đời của cuốn hồi ký “Đêm giữa ban ngày“. Cuốn sách là sự giã từ “ảo ảnh về một chủ nghĩa cộng sản được tô vẽ như là thiên đường dưới thế” của tác giả và phơi bày những “sự biến dạng của những người cộng sản” (18).

Với mục tiêu hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và “giữ vững vị trí tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở Đông – Nam châu Á, ra sức góp phần tǎng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông – Nam á và trên thế giới” (19), Hồ Chí Minh không chỉ huy động nhân-tài-vật lực của miền Bắc với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” để chi viện cho miền Nam, mà khi chiến tranh lan rộng ra miền Bắc ông còn đề nghị các nước trong phe XHCN nhiệt tình giúp đỡ và giao cho một phó thủ tướng chuyên xách cặp đi xin viện trợ của các nước này. Do đó “Trong thời kỳ chống Mỹ, phần lớn vũ khí đạn dược và quân trang, quân dụng cũng do Trung Quốc cung cấp, gồm quần áo, thuốc men, y cụ và nhiều đại bác, xe tăng, thiết giáp, cao xạ, tên lửa, máy bay, tàu chiến, cùng các phụ tùng thay thế và dầu mỡ v.v… đủ trang bị cho hơn hai triệu quân đội Việt Nam và thường xuyên cung cấp đủ số đạn được và trang bị cần thiết cho việc tác chiến liên tục trên các chiến trường”. (10)

Cũng theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, từ năm 1965 đến năm 1970, Trung Quốc “đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc gồm phòng không, công trình, đường sắt và hậu cần, mang theo toàn bộ vũ khí, trang bị, phương tiện, máy móc và vật liệu sang giúp Việt Nam” “làm cho đế quốc Mỹ không dám đưa quân trực tiếp đụng đến đất đai miền Bắc, để quân dân ta có điều kiện dốc sức vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam”. Cũng từ đó, do sự “tuyệt đối tín nhiệm” của ông đối với Trung Quốc, vòng kim cô Made in China đã dần dần được choàng lên đầu dân tộc Việt Nam. Yên tâm khi được chính phủ Trung Quốc chống lưng: “Bảy trăm triệu nhân dân Trung Quốc là hậu thuẫn vững mạnh của nhân dân Việt Nam, đất nước bao la của Trung Quốc là hậu phương chắc chắn của Việt Nam”.

Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước, trong đó ông viết: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”. Qua đó ông cũng xác định nhiệm vụ cho người dân dưới quyền ông: “Vì độc lập của Tổ quốc, vì nghĩa vụ đối với các dân tộc đang chống đế quốc Mỹ, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, không sợ hy sinh gian khổ, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. (20) Như vậy đối với ông, người dân miền Bắc chỉ là những tên lính xung kích để mở mang ảnh hưởng của chủ nghĩa ông theo đuổi và là những viên gạch lát đường cho ông bước lên đài vinh quang thành người chiến sĩ cộng sản trên trường quốc tế.

Kể cũng lạ, là một chính khách lão luyện, giỏi về lý số, tiên đoán trước cả sự vận động của thế sự mà bậc đại trí của đảng lại ngây thơ chính trị không hiểu được dã tâm “Đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của Trung Quốc để nhằm biến mảnh đất hình chữ S này thành vùng kinh tế mới của họ. Và cũng thật là lạ, con người từng phê phán chủ trương cầu viện Nhật để giúp đánh đuổi Pháp của Phan Bội Châu là “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, đã hiện thực hóa chủ trương này bằng hình thức tương tự lại được tôn vinh thành người anh hùng giải phóng dân tộc.

Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Mặt trái của Đảng CS Trung Quốc

Mặt trái của Đảng CS Trung Quốc

Trung Hoa 5.000 năm lịch sử với những thành tựu huy hoàng rực rỡ đã đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn minh nhân loại. Người Trung Hoa có quyền tự hào về 4 phát minh vĩ đại: La bàn, Thuốc súng, Giấy và Công nghệ in.

 

Quang cảnh Quân đội dọn dẹp hiện trường và tiêu thiêu hủy thi thể người chết sau vụ thảm sát ở Thiên An Môn.
(Ảnh: Vision Times)  tại Quảng Trường Thiên An Môn

Nhưng với sự ra đời củaĐảngt Công sản Trung Quốc ( ĐCSTQ) hơn 70 năm về trước, Trung Quốc ngày nay đã trở thành nơi “ươm mầm” của các loại dịch bệnh nguy hiểm, là quốc gia độc tài tàn bạo nhất thế giới và phải chịu trách nhiệm về các cuộc diệt chủng, tàn sát người nhiều nhất trong lịch sử nhân loại.

Ngày hôm nay, ĐCSTQ đã xâm nhập khắp toàn cầu. Thẳng thắn mà nói, nó diễn ra một cách có hệ thống, theo một chiến lược bài bản bởi một phần do chính sự “tốt bụng” của các đời tổng thống Mỹ trước kia.

Năm 1972, sau cú bắt tay khởi đầu tiến trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước Mỹ – Trung, Tổng thống Richard Nixon khi ấy tuyên bố: “Thế giới không thể an toàn cho đến khi Trung Quốc thay đổi. Để thoát khỏi sự độc hại của Mao Trạch Đông, thế giới phải mở cửa cho Trung Quốc và Trung Quốc phải mở cửa cho thế giới”.

22 năm sau, vào năm 1994, trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, Nixon đã lo lắng không thôi về thứ chủ nghĩa cộng sản ma quỷ mà ông đã “vô tình” thả xổng nó: “Tôi sợ rằng mình đã tạo ra một con quỷ Frankenstein khi mở cửa ra thế giới cho ĐCSTQ”.

Năm 1989, khi ĐCSTQ đàn áp cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ của sinh viên tại Quảng trường Thiên An Môn, những người dân Trung Quốc yêu chuộng tự do đã mong đợi Hoa Kỳ lên tiếng bảo vệ họ. Tiếc thay, Tổng thống George H.W. Bush (cha) đã nguyện ý lặng thinh đứng “bên lề” trong “trò chơi” tàn sát của ĐCSTQ.

Tổng thống Bill Clinton đã bỏ qua các vấn đề nhân quyền cho phép Trung Quốc gia nhập WTO. Tổng thống George W.Bush (con) đã trao cho ĐCSTQ Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn. Brack Obama “giả vờ” kiềm chế nhẹ ĐCSTQ sau khi hacker Trung Quốc đột nhập vào Văn phòng Quản lý nhân sự của chính phủ Hoa Kỳ, đánh cắp thông tin nhạy cảm của hàng triệu người dân Mỹ. Tất cả 4 đời Tổng thống này đều giữ niềm tin “ngây thơ” rằng, thể chế độc tài này sẽ thay đổi theo thời gian.

Năm 2017, Tổng thống thứ 45 Donald Trump đã bác bỏ hoàn toàn các cách tiếp cận “mềm mỏng” trên, và coi ĐCSTQ là một trong những đối thủ xảo quyệt nhất cần phải loại bỏ, với niềm tin rằng: Bản chất ĐCSTQ không bao giờ thay đổi. Chúng chính là Tà ác.

Giống như “Đại Nhảy vọt” của Mao Trạch Đông, một chiến dịch kinh tế – xã hội “loạn trí” của ĐCSTQ (1959-1961) nhằm tái “cấu trúc” Trung Quốc từ một nền kinh tế thuần nông sang một xã hội “thuần” cộng sản với 40 triệu mạng người bị sát hại, ngày nay chủ nghĩa cộng sản toàn trị Mao-xít đang được “tái sinh” dưới thời Tập Cận Bình.

“Di sản” coronavirus của Tập Cận Bình cũng được “gây dựng” trên một núi thi thể của các nạn nhân vô tội, cùng các lời dối trá để tạo ra quyền bá chủ toàn cầu cho ĐCSTQ.

Có thể nói ĐCSTQ xâm nhập ở đâu, nó hủy diệt các giá trị nhân bản và mạng sống của con người ở đó.

Trong ảnh, bạn có thể thấy những con đường đầy xác chết trên phố Trường An. Những người khác đang giúp đỡ những người bị thương

Đối với người dân Trung Quốc, hơn 70 năm ĐCSTQ kiểm soát là chừng ấy năm họ sống trong nỗi kinh hoàng, thương tiếc và suy tư. Rốt cuộc, chế độ cộng sản toàn trị này đã tẩy não thành công dân chúng, khiến họ trở nên thụ động, sợ hãi mà không thể tự quyết định cuộc đời mình.

Dưới thời Cộng sản Trung Quốc toàn trị, điều đó có nghĩa là nó xóa bỏ lối sống tập quán của người Tây Tạng, lăng mạ đức tin của người Kitô giáo, nhục hình tàn bạo các học viên Pháp Luân Công, áp bức vô số các tôn giáo thiểu số và diệt chủng văn hóa của người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ… Nó thay thế Thánh giá, tượng Phật bằng biểu tượng cờ máu của ĐCSTQ, Kinh thánh bị tịch thu và tụ tập có thể bị bắt mà không cần thông báo trước.

ĐCSTQ cho  sửa đổi Hiến pháp, xóa bỏ giới hạn nhiệm kỳ lãnh đạo và đặt vào tay Tập Cận Bình quyền trượng cai trị vô thời hạn, với quyền lực vô biên như: Giam giữ tùy tiện, bỏ tù, khai thác nội tạng và có thể khiến các đối thủ chính trị, kẻ thù không cùng quan điểm “biến mất” vào hư không. Nó có quyền kiểm soát các cuộc hẹn nhân sự, ấn phẩm – báo chí, kinh tế – tài chính và can thiệp vào nội bộ từng gia đình.

ĐCSTQ tạo ra một nhà nước giám sát hà khắc nhất trong lịch sử thế giới, nơi ĐCSTQ kiểm soát tất tật những gì người dân nói, làm và suy nghĩ. Nó cài đặt các hệ thống giám sát hàng loạt để thắt chặt kiểm soát xã hội và việc không tuân thủ các lệnh đề ra có thể dẫn đến mất việc làm, nhà ở, quyền tự do và quyền được đi học.

ĐCSTQ thắt chặt kiểm soát ý thức hệ ngay từ trẻ nhỏ và bất kỳ ai đưa ra những bình luận chỉ trích Nó đều bị trừng phạt. Tất cả các chương trình giảng dạy tại trường học phải phù hợp với “tiêu chí” của ĐCSTQ và không có thứ gọi là tự do học thuật.

ĐCSTQ coi rẻ luật lệ, đứng trên luật pháp và tự tạo ra một thứ pháp luật “rừng rú” biến hóa khôn lường. Bởi hệ thống này được đặt định ra chỉ để quyết định số phận bất kỳ ai khiêu chiến với “ý chí” thống trị của Đảng: Kẻ đó sẽ bị trừng trị theo “tinh thần pháp luật” của Nó.

An ninh, mật vụ, cảnh sát, quân đội dưới sự thống trị của ĐCSTQ không có nghĩa vụ bảo vệ sự an nguy cho đất nước, cho dân chúng, mà là công cụ để bảo vệ quyền lợi của Đảng và sẵn sàng trấn áp bất cứ người dân nào không nghe theo Nó.

Sự tàn ác mà ĐCSTQ đã thực thi là các vụ giết người hàng loạt chính công dân của Nó, mà số người bị giết trong suốt hơn 70 năm cầm quyền gấp nhiều lần con số diệt chủng mà độc tài phát xít Hitler đã gây ra.

Categories: Nhan dinh | Leave a comment

Create a free website or blog at WordPress.com.