Một nhà sử thần đã phải cảm thán về Lý Thường Kiệt như thế này: “Đường đường chính chính đem quân vào nước người, khi đánh không ai địch nổi, khi kéo quân về không ai dám đuổi theo, như trận đánh Ung Liêm này thật là đệ nhất võ công”. Lý Thường Kiệt (1019 – 1105) là nhà quân sự, nhà chính trị nổi tiếng, một thái giám đời nhà Lý,làm quan qua 3 triều vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông. Ông nổi bật với việc chinh phạt Chiêm Thành (1069), đánh phá 3 châu Khâu, Ung, Liêm (1075-1076), rồi đánh bại cuộc xâm lược Đại Việt của quân Tống (1077).
Ông đã làm tể tướng hai lần dưới thời Lý Nhân Tông và là một trong 3 người phụ chính khi vua này còn nhỏ tuổi. Theo nhận xét của “Đại Việt sử ký toàn thư” nhà của ông nối đời làm quan, trú ở phường Thái Hòa của thành Thăng Long. Từ nhỏ Lý Thường Kiệt đã tỏ ra người có chí hướng và nghị lực, chăm học tập, rèn luyện cả văn lẫn võ, từng nghiên cứu về binh pháp.
Phòng thủ bằng cách tấn công
Thời bấy giờ ở phương Bắc, nhà Tống đang phải đối mặt với sự uy hiếp của các bộ tộc hùng mạnh là Đại Liêu, Tây Hạ, Khiết Đan… Cộng thêm chính sách cải cách thiếu hiệu quả trong nước của tể tướng Vương An Thạch, các cuộc khởi nghĩa của nông dân liên tiếp dấy lên. Đứng trước tính hình đó, Tống Thần Tông và Vương An Thạch đã vạch ra một kế hoạch xâm lăng Đại Việt chi tiết hòng giảm áp lực, lấy lại uy tín, đồng thời khiến hai nước Hạ, Liêu phải kiêng nể mình.
Năm 1075, lợi dụng việc vua Lê Thánh Tông mới băng hà, vua Lý Nhân Tông còn bé mới vừa lên ngôi,Vương An Thạch tâu với vua Tống là Đại Việt vừa bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt.
Biết trước kế hoạch xâm lược của quân Tống nhờ tin tình báo, Lý Thường Kiệt, đã nghĩ ngay đến biện pháp phòng thủ rất đặc biệt. Ông tâu với vua Lý Nhân Tông:“Ngồi im đợi giặc chi bằng đem quân đi trước để chặn thế mạnh của giặc”.
So với Tống, rõ ràng, nước ta là nước nhỏ. Vậy vì sao Lý Thường Kiệt có thể nghĩ đến một giải pháp mạo hiểm như vậy? Bởi vì lúc đó Lý Thường Kiệt cho rằng nội tình nước Tống đang rối ren, cương giới bị một số nước lân bang uy hiếp, triều đình thì chia rẽ sau những cải cách mạnh tay của vị tể tướng trẻ Vương An Thạch. Đó là cơ sở để quân ta có thể tiến hành một cuộc tấn công chớp nhoáng dằn mặt quân địch.
Sau khi phân tích, Lý Thường Kiệt dự đoán quân Tống có thể đi vào nước ta theo hai đường, trong đó, nhánh đường bộ có thể lấy châu Ung (Nam Ninh – Quảng Tây), còn nhánh đường thuỷ có thể lấy châu Khâm, châu Liêm (Quảng Đông) làm cứ điểm tập kết binh, lương. Vì vậy, mục tiêu tấn công mà ông chuẩn bị nhắm tới là ba thành trên với nhiệm vụ đốt phá kho lương và tiêu diệt sinh lực địch.
Vào tháng 10/1075 diễn ra cuộc tiến công “tiên phát chế nhân” nổi tiếng lịch sử Việt Nam. Lý Thường Kiệt và các tù trưởng Tông Đản, Thân Cảnh Phúc chỉ huy 10 vạn quân, chia làm 2 đạo thuỷ bộ bí mật tiến vào đất Tống.Bí mật và bất ngờ,40.000 quân thủy cùng voi chiến đi đường biển từ châu Vĩnh An đổ bộ lên đánh các châu Khâm, châu Liêm.
Ngày 30/12/1075, quân Đại Việt tiến chiếm thành châu Khâm, bắt toàn bộ quan quân nhà Tống mà không phải giao chiến một trận nào. Ba ngày sau, 2/1/1076,châu Liêmcũng thất thủ.Từ châu Liêm, ông đưa quân sang châu Ung, hợp với cánh quân bộ tiêu diệt thành châu Ung, mục tiêu cuối cùng và quan trọng nhất của cuộc hành quân. Thành châu Ung bị hạ sau 42 ngày vây hãm. Lý Thường Kiệt cho quân huỷ hết các kho tàng và lương thực của giặc rồi nhanh chóng thu quân về nước.
Thành châu Ung bị hạ sau 42 ngày vây hãm. Lý Thường Kiệt cho quân huỷ hết các kho tàng và lương thực của giặc rồi nhanh chóng thu quân về nước. (Ảnh: wikipedia.org)
Quân Tống từ kẻ chủ mưu tiến công xâm lược bỗng nhiên bị đẩy vào tình thế thất trận ngay từ khi chuẩn bị kéo quân.Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất hoang mang, lo ngại, các tướng ở địa phương bối rối. Ty kinh lược Quảng Nam tây lộ vội vã xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 con ngựa, xin thêm khí giới, đồ dùng và một tháng lương, và xin được điều động các dân khê động, tất cả lấy dọc đường từ Kinh châu đến Quảng Tây. Để điều khiển quân được mau chóng, Ty ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung châu.
Chiến thắng áp đảo trong cuộc hành quân chế địch của Lý Thường Kiệt đã tạo ra nhiều yếu tố tác động mạnh mẽ đến cục diện cuộc xâm lược của quân Tống. Chiến thắng làm người dân Việt nức lòng, buộc địch phải kéo dài thời gian chuẩn bị và đặc biệt đẩy quyền chủ động sang tay quân dân nhà Lý. Không những bảo toàn được binh lực, tiêu diệt sinh lực địch, đẩy địch vào tình thế bị động, cuộc tấn công phủ đầu của Lý Thường Kiệt còn nâng cao sĩ khí.
Cuộc tấn công đã đạt được nhiều mục đích hơn cả một cuộc phòng thủ thông thường. Cho quân lui về nước, nắm thế chủ động trong tay, Lý Thường Kiệt bắt tay vào triển khai một thế trận mới. Ông cho chuẩn bị binh lực, phòng bị và thiết lập phòng tuyến sẵn sàng nghênh địch.
Trận chiến sông Như Nguyệt
Sau sự thất thủ chóng vánh của các thành Ung châu, Khâm châu và Liêm châu, vua quan nhà Tống vạch lại kế hoạch và chuẩn bị thật kỹ càng cho một trận phục thù. Với mục đích “sau khi bình được Giao Châu (tên Tống gọi Đại Việt), sẽ đặt châu huyện như ở nội địa”.
Tháng 3 năm 1076, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hẹn với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp nào dám tiến vào Đại Việt. Quân Tống viễn chinh lên đến 10 vạn quân, một vạn ngựa và hai mươi vạn dân phu, khí thế rất mạnh mẽ, nhất là kỵ binh Tống.
Để toàn tâm tập trung cho cuộc đối đầu với quân Tống ở mặt Bắc, triệt tiêu mưu đồ xúi giục Chiêm Thành và Chân Lạp quấy rối nước ta của triều đình nhà Tống, Lý Thường Kiệt đưa quân vào tuần tra, trấn áp khu vực biên giới phía nam Đại Việt.
Đoán biết mục tiêu thứ nhất của quân Tống là chiếm phá kinh thành Thăng Long, phá lâu đài, cung điện. Lý Thường Kiệt cho xây dựng một phòng tuyến kiên cố bên bờ nam sông Như Nguyệt – sông Cầu ngày nay. Không chỉ là một hào nước lớn tự nhiên bảo vệ kinh thành Thăng Long và lăng miếu nhà Lý, con sông này án ngữ tất cả các tuyến đường đi từ Quảng Tây tới Thăng Long. Ngoài ra, trước thành đất và cọc tre dày đặc đó, Lý Thường Kiệt lại cắt đặt thêm thuỷ quân, sẵn sàng tiếp chiến với quân địch nếu chúng vượt sông. Vì thế cho nên, chỉ việc vượt qua sông cũng là cả một thử thách nhọc nhằn đối với quân địch.
Để chặn bước tiến của thuỷ quân địch, Lý Thường Kiệt giao cho Lý Kế Nguyên chỉ huy một đội thuỷ quân đợi sẵn ở Đông Kênh (dải nước ven biển giữa đất liền và các hải đảo vùng biển Đông Bắc nước ta), đường tiến vào cửa Bạch Đằng. Có thể thấy, thuỷ binh sẽ là lực lượng nòng cốt triển khai thế trận ấy. Ngoài sự đắc địa của khúc sông Như Nguyệt, chắc chắn thế trận thuỷ binh của vị tướng 58 tuổi này xuất phát từ một thực tế mà ông biết rõ ràng rằng, không giỏi thuỷ chiến là một nhược điểm trầm trọng của quân Tống.
Vậy là, với thế trận vững chắc ấy, quân dân nhà Lý chỉ còn chờ giặc đến.
Với thế trận vững chắc ấy, quân dân nhà Lý chỉ còn chờ giặc đến. (Ảnh: wikipedia.org)
Đẩy quân giặc vào thế tiến thoái lưỡng nan
Cuối năm 1076, 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa chiến cùng 20 vạn dân phu do Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy ồ ạt tiến vào nước ta. Để tiến thêm và đánh những đòn chí tử vào đại quân nhà Lý rồi chiếm kinh thành Thăng Long, quân của tướng Quách Quỳ phải vượt qua khúc sông và phòng tuyến Như Nguyệt vô cùng kiên cố. Quân Tống lúng túng. Bản thân chúng không quen với thuỷ trận.
Bình thường, quân Tống không có sẵn thuỷ binh hay các chiến thuyền. Và điều quan trọng lúc này, đội thuỷ quân thiếu chuyên nghiệp của quân Tống đang “mắc cạn” tại Đông Kênh vì bị quân của Lý Kế Nguyên chặn đánh thua đến hơn 10 trận và không thể tiến sâu thêm. Sự bất lực của thuỷ quân Tống vô hình trung đã khiến cuộc tiến công của Quách Quỳ lao đao.
Hạ trại trên bờ bắc sông Như Nguyệt mà mãi thuỷ quân chưa đến, Quách Quỳ quyết định cho quân vượt sông. Nhưng cả hai lần vượt sông không những đều thất bại mà còn bị tổn thất nặng nề về người vì gặp phải sự chống trả ác liệt của quân nhà Lý. Sau nhiều lần cố sức vượt sông nhưng thất bại ấy, Quách Quỳ thất vọng ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ chém” và từ thế tiến công chuyển sang thế phòng ngự. Quân sĩ Tống vì thế mà ngày càng nhụt nhuệ khí, lại cộng thêm với khí hậu phương nam vốn không hợp với người phương Bắc nên chết dần chết mòn.
Cùng lúc đó thuỷ binh Tống do Hòa Mân và Dương Tùng Tiểu chỉ huy đã bị thủy quân Đại Việt do Lý Kế Nguyên điều động, chặn đánh ngoài khơi lối vào Vĩnh An. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Đại Việt tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống. Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh thần quân Nam chiến đấu. Ông đang đêm sai người tâm phúc đọc vang bài thơ “Nam quốc sơn hà” trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát, khúc sông Như Nguyệt :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ, không đánh đã tan.
Cuối mùa xuân năm 1077, Lý Thường Kiệt mở cuộc tấn công lớn vào trận tuyến của địch. (Ảnh: wikipedia.org)
Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Đại Việt lại tập kích, doanh trại của phó tướng Triệu Tiết bị phá, dù quân Tống cũng giết được hai tướng Đại Việt là Hoàng Chân và Chiêu Văn. Quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần.Nắm thời cơ đó, cuối mùa xuân năm 1077, Lý Thường Kiệt mở cuộc tấn công lớn vào trận tuyến của địch.
Đang đêm quân Lý lặng lẽ vượt sông Như Nguyệt, bất ngờ đánh thẳng vào các doanh trại giặc. Chúng lâm vào tình thế hết sức khó khăn tuyệt vọng, mà người Việt bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất, nên sai sứ sang xin “nghị hoà” để quân Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân. SáchViệt Sử kỷ yếucủa Trần Xuân Sinh dẫn cổ sử nói về nội tình của nhà Tống về sự kiện này: Triều thần nhà Tống cho rằng“Cũng may mà lúc đó địch lại xin giảng hoà, không thì chưa biết làm thế nào”.
Sử thần nhà Lê trung hưng Ngô Thì Sĩ, trong sách Việt sử tiêu án, đã ca ngợi Lý Thường Kiệt như sau: “Nước ta đánh nhau với quân nước Trung Hoa nhiều lần, từ vua Nam Đế trở về trước, việc đã lâu rồi, sau này vua Ngô Tiên Chúa đánh Bạch Đằng, vua Lê Đại Hành đánh trận Lạng Sơn, vua Trần Nhân Tông đánh đuổi được Toa Đô, Thoát Hoan, những trận được vẻ vang đó là câu chuyện hãnh diện của nước ta, nhưng đều là giặc đến đất nước, bất đắc dĩ mà phải ứng chiến. Còn đến đường đường chính chính đem quân vào nước người, khi đánh không ai địch nổi, khi kéo quân về không ai dám đuổi theo, như trận đánh Ung Liêm này thật là đệ nhất võ công, từ đấy người nước Tàu không dám coi thường chúng ta, đến những đồ cống, hình thức thơ từ, không dám hà trách, chỉ sợ lại sinh ra hiềm khích. Đến thơ từ của nước ta đưa cho Trung Hoa chỉ dùng có hai tấm ván sơn đen, liệt tên vài vị đại thần dùng ấn tín Trung thư môn hạ mà đóng vào, thế thì triều Lý được trịch với Tống nhiều lắm”.
Cám ơn Thầy/GS Phạm quân Hồng đã gởi cho tôi email có giá trị về lịch sữ:” Thành Cổ Loa” để xem và để dành cho kỷ, nhưng xin đừng giử kín quá, sau nầy tìm hoài không ra? Biết đâu tì̀m? Tìm đâu? Biết tìm đâu những ngày xưa thân ái..của nhạc sĩ Nguyễn Hiền, hay …”Trong sân trường ngày ấy.”..của nhà văn Nguyễn ngọc Ngạn. Lỡ lạc đề rồi thì cho lạc đề luôn đi, tới đâu thì tới, sợ gì nhỉ? xin Quí Vị thông cảm cho “tấm thân bèo dạt hoa trôi, năm chìm bảy nổi” của tôi. Phó thường dân..
———- Forwarded message ———-
From: Hong Pham<phamquanhong@hotmail.com>
Date: 2014-03-01 14:28 GMT-08:00
Subject: Fwd: Thành Cổ Loa
To:
Thân mến chuyển đến các bạn một số hình ảnh lịch sử của dân tộc VIỆT
Sent from my iPad
Begin forwarded message:
Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa là di tích lịch sử có từ hơn 2050 năm, là di tích thứ nhì sau vua Hùng.
Ước nguyện là làm thế nào để đến được các di tích lịch sử từ đời vua Hùng cho đến các triều đại về sau.
Xin giới thiệu di tích thành Cổ Loa ở Đông Anh – Hà Nội.
Hình hướng dẫn du khách vào thành Cổ Loa ở Đông Anh.
Sơ đồ thành Cổ Loa, nhìn thì biết thế nhưng thật ra để nhìn toàn cảnh thành Cổ Loa phải dùng máy bay trực thăng mới thấy được tổng thể của thành vì quá rộng lớn.
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên.
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km. Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5m, có chỗ 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
Điểm đến đầu tiên khi vào thành Cổ Loa, dọc đường đông đúc nhà của phố thị là cửa Trấn Nam.
Miếu thờ thần trấn cửa Nam. Thành Cổ Loa có 4 miếu trấn 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc.
Qua cửa Trấn Nam rẽ tay phải đến khu di tích đền thờ tướng Cao Lỗ.
Hình tượng tướng Cao Lỗ ở giủa hồ, tay dương nỏ Liên Châu.
Cao Lỗ (? – 179 trước Công nguyên) (còn gọi là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần) là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là Nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.
Đền thờ Cao Lỗ.
Mũi tên bằng đồng, cổ vật được tìm thấy tại khu di tích thành Cổ Loa.
Cha đẻ nỏ Thần
Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ Liên Châu (nỏ thần), bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi là: “Linh Quang Thần Cơ”. Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.
Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sỹ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên “Ngự xa đài”, dấu vết này nay vẫn còn (góc đông bắc ngoài thành nội).
Là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ nên dân gian thường gọi ông là Ông Nỏ.
Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.
Án thờ tiền sảnh, thờ Bách gia trăm họ.
Án thờ Cao Lỗ ở Hậu cung.
Qua đời
Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần bị vua xa lánh, ông bỏ đi tìm nơi ở ẩn.
Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương và về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh. An Dương Vương thua chạy. Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát nhưng do Mỵ Châu tin lời của Trọng Thủy, rải lông ngỗng theo sau để Trọng Thủy lần theo nên cả hai đã tử trận.
Toàn cảnh đền thờ Cao Lỗ.
Đền thờ Vua An Dương Vương cách đền thờ Cao Lỗ chừng 150m
Hồ nước trước đền thờ, một phong cảnh hữu tình nhất của thành Cổ Loa.
Cổng chính của đền thờ vua nhìn ra hồ nước.
Qua cổng chính là cổng Tam Quan.
Hình ảnh nhìn từ chánh điện ra phía trước, thiêt kế gọn gàng, hai bên là hai nhà tả, hữu. Buổi trưa hết giờ hành chánh cửa điện đóng nên không vào bên trong điện được
Rời điện thờ, ra ngoài nhìn cảnh hồ thật nên thơ, chụp một bức ảnh góc xa nhìn về ngôi đền.
Dù đã trưa nhưng vẫn tiếp tục quay lại đền Cao Lỗ, phái sau đền Cao Lỗ là cung đình, nơi hội họp của An Dương Vương.
Cổng chánh.
Cung điện là một tòa nhà 9 căn, cửa đóng then gài vì quá trưa không mở cửa.
Bên cạnh là miếu thờ Mỵ Nương.
Án thờ Hội đồng.
Án thờ Mỵ Nương ở Hậu cung, nơi đây âm u thấy rợn người khi lẻn vào chụp ảnh.
Một góc nhìn về chánh điện.
Một cảnh của hồ nước trước trước đền thờ rất thơ mộng.
Góc xa nhìn về ngôi đền thờ vua.
Hình ảnh một đoạn thành Cổ Loa.
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm.
Nhiều đoạn thành bị cắt xẻ để làm đường giao thông đi lại từ khu vực nầy sang khu vực khác do mật độ dân số tăng lên, lập thành hệ thống liên thông giửa là này qua làng khác đã phá vỡ cảnh quang của hệ thống thành Cổ Loa.
Cửa Trấn Bắc
Cửa Trấn Bắc trên vị trí vòng thành thứ 3, cách trung tâm Cổ Loa 5km. được người dân nơi đây tôn tạo giữ gìn.
Vòng thành bị đứt nhiều đoạn. Cứ thấy giửa cánh đồng có đoạn nào cao, cây cối mọc sum sê thì đó là đoạn thành Cổ Loa.
Cửa Trấn Tây. Riêng cửa Trấn Đông không còn vì người dân nơi đó đã san bằng để xây dựng nhà cửa. Thật đáng tiếc.
Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng.
Vài hình ảnh về nhánh sông Hoàng bao quanh thành Cổ Loa.
Hình ảnh sông Hoàng chảy về thành Cổ Loa. Hiện nay tốc độ xây dựng khu dân cư, làng xóm trong phạm vi khu nội thành đã phá vỡ cảnh quang của khu di tích, nhà cửa xây cao tầng sát với các khu đền thờ quan trọng nhất của thành Cổ Loa.
25 Comments